Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh

Trong khi đọc văn bia trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, chúng tôi thấy

nhiều văn bia Phật giáo có ghi lại một số danh xưng mà ngày nay

không thấy được sử dụng. Nhận thấy đây là vấn đề thú vị, trong bài

viết này, chúng tôi cung cấp đến quý bạn đọc những thông tin có liên

quan đến các danh xưng đó, nhằm góp phần làm phong phú thêm kiến

thức về Phật giáo nói riêng và về văn hóa Việt Nam nói chung. Các

danh xưng của Phật tử Phật giáo thời Lê ở Bắc Ninh thấy phổ biến là:

Thiện sĩ, Tri kỳ anh phủ sĩ, Phủ sĩ, Huyện sĩ, Tổng sĩ, Thái lão vãi,

Lão vãi,. Những danh xưng trên đây không phải là tên người, cũng

không phải một loại chức vụ của các tăng sĩ trong Giáo hội Phật giáo

mà chỉ có ở nam nữ tín đồ Phật tử. Những danh xưng trên ít thấy xuất

hiện vào thời Nguyễn, và từ năm 1945 đến nay, hoàn toàn không thấy

được sử dụng

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 1

Trang 1

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 2

Trang 2

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 3

Trang 3

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 4

Trang 4

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 5

Trang 5

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 6

Trang 6

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 7

Trang 7

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 8

Trang 8

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 6940
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh

Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo thời Lê qua tư liệu văn bia ở Bắc Ninh
”, v.v... 
Có thể nói, tìm hiểu bia trùng tu, bia công đức xuất hiện vào thời 
Lê ở Bắc Ninh, chúng tôi đều thấy có danh xưng Thiện sĩ kèm theo họ 
tên, tên tự, tên hiệu, tên thụy của những người đàn ông. Vậy danh 
xưng đó do ai tôn xưng và ý nghĩa xã hội của nó là gì? Theo chúng 
tôi, danh xưng Thiện sĩ là do giới Phật tử trong nội bộ một làng đặt ra 
và dùng để gọi những người đàn ông có nhiều việc làm thiện theo 
quan điểm của Phật giáo đối với dân làng. Thiện sĩ không phải là một 
chức danh lại càng không phải là tên người mà chỉ là một danh xưng 
để tôn vinh một số người có nhiều công đức với chùa làng. 
2. Về các danh xưng Tri phủ sĩ, Phủ sĩ, Huyện sĩ, Tổng sĩ 
Văn bia Nhự Nương Tự Bi ở chùa Tường Quang, thôn Đông Sơn, 
xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Tộ (1622), có khắc: 
124 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 
“Kiêm Tri phủ sĩ Nguyễn Sĩ Đăng, tự Phúc Dư; Phủ sĩ Nguyễn Kim 
Lâu, tự Phúc Quang, hiệu Đạo Minh, Tri phủ sĩ Nguyễn Uyển, tự Huệ 
Kinh, hiệu Phúc Cao”. Văn bia Tân tạo tiền đường bi Khánh Lâm tự - 
Cấu tác hậu đường thụ mộc di ký ở chùa Khánh Lâm, thôn Giới Tế, xã 
Phú Lâm, huyện Tiên Du dựng năm Vĩnh Trị 2 (1667), có ghi danh 
xưng Tri phủ sĩ cho các trường hợp: Tri phủ sĩ Trương Viết Bôi, tự 
Phúc Quảng, hiệu Đạo Cao; Tri phủ sĩ Đỗ Văn Toại, tự Phúc Thịnh; 
Tri phủ sĩ Đỗ Văn Độ, tự Đạo Chính, hiệu Phúc Trung; Tri phủ sĩ 
Nguyễn Văn Ngư, tự Phúc Lương; Tri phủ sĩ Ngô Văn Liễn, tự Phúc 
Tiến; Kiêm Tri phủ sĩ Đỗ Tiến Túc, tự Phúc Miên; Tri phủ sĩ Nguyễn 
Chuyết, tự Phúc Lộc; Tri phủ sĩ Ngô Văn Chí, tự Phúc Đạt; Tri Phủ sĩ 
Đỗ Tuấn Nghệ tự Phúc Lượng; Tri phủ sĩ Ngô Tất Dục, tự Phúc Sơn; 
Tri phủ sĩ Nguyễn Văn Duy, tự Phúc Ninh; Tri phủ sĩ Nguyễn Văn 
Đa, tự Phúc Truyên; Tri phủ sĩ Nguyễn Sĩ Biện, tự Phúc Đại; Tri phủ 
sĩ Lưu Văn Cẩm, tự Phúc Cẩn; Tri phủ sĩ Ngô Văn Kiêm, tự Phúc Tri; 
Tri phủ sĩ Đỗ Tiến Cao, tự Phúc Quang; Phủ sĩ Ngô Hữu Lộc, tự Phúc 
Đắc; Tri phủ sĩ Ngô Tất Đắc, tự Phúc Vạn; Tri phủ sĩ Lê Nhất, tự 
Phúc Hiền; Phủ sĩ Đỗ Hanh Đức; Tri phủ sĩ Ngô Xuân Tu, tự Phúc 
Đức; Đạo lục tư kiêm Tri phủ sĩ Nguyễn Duy Hiền, tự Huyền Tăng, 
hiệu Đạo Nguyên; Tri phủ sĩ kiêm Văn thư Nguyễn Duy Cảnh, tự 
Huyền Thịnh, hiệu Phúc Cận; Tri phủ sĩ Nguyễn Hùng Tài, tự Huyền 
Lương, hiệu Đức Chính. 
Văn bia Hưng Công Tân Tạo ở chùa Quang Phúc, thôn Ân Phú, xã 
Phú Lâm, huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Khánh 3 (1731), có các vị 
có danh xưng Tri phủ sĩ và Phủ sĩ: Tri phủ sĩ Nguyễn Hữu Đồng, tự 
Phúc Lai; Tri phủ sĩ Nguyễn Hữu Tuấn, tự Thông Huyền Cơ, hiệu 
Phúc Công; Phủ sĩ Nguyễn Đăng Khôi, tự Phúc Chân; Tri phủ sĩ 
Nguyễn Hữu Điều, tự Phúc Thung; Tri phủ sĩ Nguyễn Đình Tri, tự 
Phúc Nhẫn; Tri phủ sĩ Nguyễn Nhân Luân, tự Huyền Tông, hiệu Phúc 
Lan; Tri phủ sĩ Đào Công Phú, tự Phúc Minh; Tri phủ sĩ Nguyễn Đăng 
Tướng, tự Phúc Đức; Tri phủ sĩ Đào Văn Liêu, tự Phúc Lãnh; Tri phủ 
sĩ Nguyễn Hữu Nghiễm, tự Phúc Hiền. 
Văn bia Tăng Lục Tự Bi - Chư hậu Phật ký ở chùa Tăng Lục, thôn 
Hộ Vệ, xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du, dựng năm Chính Hòa 14 ghi danh 
Nguyễn Quang Khải. Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo 125 
xưng Tri Đốc phủ phủ sĩ và Tri phủ phủ sĩ của các vị sau: Tri Đốc phủ 
phủ sĩ Nguyễn Văn Đạt, tự Phúc Lục; Tri Đốc phủ phủ sĩ Nguyễn Văn 
Chức, tự Phúc Tước; Văn thư kiêm Tri phủ phủ sĩ Nguyễn Gia Thịnh, 
tự Phúc Hưng; Phủ sĩ Nguyễn Gia Trai, tự Phúc Lộc; Phủ sĩ Nguyễn 
Đức Kiêm tự Phúc Long. 
Văn bia Nhự Nương Tự Bi ở chùa Tường Quang, làng Đông Sơn, 
xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Tộ 4 (1622) có ghi 
danh xưng Tri phủ sĩ, Phủ sĩ và Tổng sĩ: Tri phủ sĩ Nguyễn Sĩ Đăng, 
tự Phúc Dư Phú Thọ, hiệu Đạo Long; Phủ sĩ Nguyễn Kim Lâu, tự 
Phúc Quang, hiệu Đạo Minh; Tổng sĩ Triêu Hoa bá Đỗ Vinh, tự Phúc 
Thành; Tri phủ sĩ Nguyễn Huy, tự Huệ Kính, hiệu Phúc Cao. 
Văn bia Thanh Vân Tự Bi ở chùa Thanh Vân, thôn Hoài Bão, xã 
Hoài Bão, huyện Tiên Du, dựng năm Chính Hòa 12, có ghi các vị có 
danh xưng Tri phủ sĩ, Huyện sĩ: Tri phủ sĩ Nguyễn Viết Hối, tự Phúc 
Quang; Tri phủ sĩ Trần Vinh Đa, tự Pháp Công, hiệu Huyền Quý; Tri 
phủ sĩ Nguyễn Công Nói, tự Phúc Đạt; Tri phủ sĩ Trần Phú Lịch, tự 
Phúc Tửu; Tri phủ sĩ Nguyễn Nhân Tài, tự Phúc Sơn; Tri phủ sĩ Trần 
Đắc, tự Phúc Tâm; Tri phủ sĩ Trần Vinh Phú, tự Phúc Sinh; Huyện sĩ 
Trần Thế Tiến, tự Phúc Tình. 
Văn bia Thiên Phúc Tự Bi ở chùa Thiên Phúc, thôn Đại Lâm, xã 
Tam Đa, huyện Yên Phong, dựng năm Vĩnh Thọ 2 (1659) có khắc 
danh xưng Tri phủ sĩ và Phủ sĩ của các vị: Tri phủ sĩ bản tự Nguyễn 
Thế An, tự Phúc Thành; Phủ sĩ Nguyễn Thời Tập, tự Phúc Khánh; 
Phủ sĩ Nguyễn Thân Trường, tự Phúc Lộc: Phủ sĩ Nguyễn Văn An, tự 
Phúc Quảng; Phủ sĩ Nguyễn Tất Tài, tự Phúc Hằng; Phủ sĩ Nguyễn 
Thế Vinh, tự Phúc Thụ. 
Văn bia Thiên Phúc Tự Bi ở đình thôn Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện 
Yên Phong, dựng năm Phúc Thái 6 (1648) cho biết các vị có danh 
xưng Phủ sĩ, Huyện sĩ, Tổng sĩ: Phủ sĩ Nguyễn Mậu Phúc, tự Đạo 
Nguyên; Phủ sĩ Đặng Văn Đình, tự Pháp Tâm; Phủ sĩ Nguyễn Viết 
Phú, tự Phúc Hào; Phủ sĩ Nguyễn Văn Tú, tự Phúc Hòa; Phủ sĩ 
Nguyễn Thế An, tự Phúc Thành Công; Phủ sĩ Nguyễn Đắc Lộc, tự 
Phúc Khang; Phủ sĩ Nguyễn Thời Tập, tự Phúc Khánh; Phủ tổng sĩ 
Nguyễn Củng, tự Phúc Lộc. 
126 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 
Huyện sĩ Nguyễn Phúc Xương, hiệu Phúc Trí. 
Tổng sĩ Nguyễn Nhữ Đa, hiệu Đạo Trị, tự Thọ Trường. 
Văn bia Thiên Phúc tự bi/bản xã thập phương công đức ở đình làng 
Đại Lâm, xã Tam Đa, huyện Yên Phong, dựng năm Chính Hòa 10 ghi 
những người có danh xưng Tri phủ sĩ và Phủ sĩ: Tri phủ sĩ kiêm Văn 
thư Đặng Đắc Lộc, tự Pháp Đạt, hiệu Phúc Tiến; Tri phủ sĩ Phạm 
Song, tự Phúc Hòa; Tri phủ sĩ Nguyễn Văn Tuyển, tự Phúc Lan; Tri 
phủ sĩ Nguyễn Vinh Tiến, tự Phúc Độ; Tri phủ sĩ Đào Công Tu, tự 
Phúc Huân; Tri phủ sĩ Nguyễn Quang Hiển, tự Pháp Hựu, hiệu Phúc 
Sùng; Tri phủ sĩ Vương Vạn Khước, hiệu Huyền Đình, tự Phúc Lai; 
Tri phủ sĩ Ngô Đăng Cao, tự Đạo Hải; Tri phủ sĩ Đặng Đàn, tự Phúc 
Kiên; Tri phủ sĩ Nguyễn Tuấn Tùy, tự Phúc Khánh; Tri phủ sĩ Nguyễn 
Văn Ngạn, tự Phúc Trường; Tri phủ sĩ Nguyễn Văn Đạo, tự Phúc 
Quảng; Tri phủ sĩ Nguyễn Hữu Cung, tự Phúc Công; Tri phủ sĩ 
Nguyễn Văn Miêu, tự Phúc Tín; Tri phủ sĩ Nguyễn Hữu Truyền, tự 
Phúc Minh; Tri phủ sĩ Nguyễn Công Chế, tự Phúc Quảng; Tri phủ sĩ 
Nguyễn Văn Vị, tự Phúc Hợp; Tri phủ sĩ Nguyễn Đắc Vị, tự Pháp An; 
Tri phủ sĩ Nguyễn Văn Hội, tự Phúc Hợp. 
Văn bia này cũng khắc danh xưng Tri lão vãi của một số người: Tri 
Lão vãi Nguyễn Thị Ngạn, hiệu Từ Quảng; Tri Lão vãi Nguyễn Thị 
Bảo, hiệu Từ Lão; Tri Lão vãi Nguyễn Thị Tỉnh, hiệu Diệu Thanh. 
Văn bia Vân La Tự Tỉnh Bi ở chùa Vân La, thôn Phù Lưu, xã Trung 
Nghĩa, huyện Yên Phong, dựng năm Vĩnh Tộ 4 (1621) có ghi danh 
xưng Tri phủ sĩ của một số người: Tri phủ sĩ Nguyễn Công Phụ, tự 
Lương Bật Pháp, hiệu Đức Thành; Tri phủ sĩ Nguyễn Tuấn Nghệ, tự 
Văn Trinh, hiệu Đức Ngạn. 
Văn bia Tân tạo tiền đường bi Khánh Lâm Tự - Cấu tác hậu đường 
thụ mộc di ký ở chùa Khánh Lâm, thôn Giới Tế, xã Phú Lâm, huyện 
Tiên Du dựng năm Vĩnh Trị 2 (1667) có khắc danh xưng Huyện sĩ của 
hai vị: Huyện sĩ Đỗ Văn Dụng, tự Phúc Tồn; Huyện sĩ Nguyễn Văn 
Nghị, tự Huyền Định, hiệu Đức Vân. 
Văn bia Nhự Nương Tự Bi ở chùa Tường Quang, làng Đông Sơn, 
xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Tộ 4 (1622) có khắc 
Nguyễn Quang Khải. Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo 127 
danh xưng Huyện sĩ của một số vị: Huyện sĩ Nguyễn Học Phái, tự 
Phúc Gia; Huyện sĩ Nguyễn Đắc Lộc, tự Đức Hiền; Huyện sĩ Phan 
Hưng Công, tự Pháp Công, hiệu Du Sơn; Huyện sĩ Nguyễn Chiêm, tự 
Phúc Thịnh, hiệu An Lộc; Huyện sĩ Nguyễn Như Cương, tự Huyền 
Chính; Huyện Sĩ Nguyễn Chân, tự Phúc Ninh; Huyện sĩ Nguyễn Như 
Trúc, tự Huyện An, hiệu Phúc Thái; Huyện sĩ Trần Trác, tự Phúc Lai; 
Huyện sĩ Nguyễn Quý Phái, tự Phúc Gia; Huyện sĩ Nguyễn Đắc Lộc, 
tự Đức Hiền; Huyện sĩ Phan Hưng Công, tự Pháp Vân, hiệu Du Sơn; 
Huyện sĩ Nguyễn Như Trúc, tự Huyền An, hiệu Phúc Thái; Huyện sĩ 
Trần Nhẫn, tự Phúc Lai. 
Văn bia Trùng Tu Phúc Lâm Tự Bi ở chùa Phúc Lâm, làng Tam 
Tảo, xã Phú Lâm, huyện Tiên Du, dựng năm Dương Hòa 2 (1636), có 
khắc ghi danh xưng Huyện sĩ của một số vị: Huyện sĩ Nguyễn Văn 
Đinh, tự Phúc Trang; Huyện sĩ Ngô Hữu Tại, tự Phúc Lộc; Huyện sĩ 
Nguyễn Nhân Đồng, tự Phúc Khanh; Huyện sĩ Nguyễn Đức Trương, 
tự Tài Lộc. 
 Văn bia Thiên Phúc Tự Bi ở chùa Thiên Phúc, làng Đại Lâm, xã 
Tam Đa, huyện Yên Phong, dựng năm Vĩnh Thọ 2 (1659) có khắc các 
vị Huyện sĩ: Huyện sĩ Ngô Đăng Khoa, tự Đạo Tiến, hiệu Pháp Lộc; 
Huyện sĩ Nguyễn Lịch, tự Phúc Trung; Huyện sĩ Nguyễn Đắc Danh, 
tự Phúc Truyện. 
Văn bia Nhự Nương Tự Bi ở chùa Tường Quang, thôn Đông Sơn, 
xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Tộ 4 (1622) có ghi 
danh xưng Tổng sĩ: Tổng sĩ Triêu Hoa, bá Đỗ Vinh, tự Phúc Thành. 
Tìm hiểu văn bia Phật giáo ở Bắc Ninh, chúng tôi thấy các danh 
xưng Tri phủ sĩ, Phủ sĩ, Huyện sĩ, Tổng sĩ là các danh xưng phổ biến 
xuất hiện ở thời Lê mà có thể nói văn bia trùng tu, văn bia công đức ở 
chùa nào cũng có. Vậy ý nghĩa của những danh xưng đó là gì? Tìm 
hiểu một số Từ điển Phật giáo, như: Phật giáo đại từ điển do Đinh 
Phúc Bảo soạn (Đài Loan), Từ điển Phật học Hán Việt, (Nxb. Khoa 
học xã hội, Hà Nội, 2004),... chúng tôi không thấy có mục từ nào giải 
thích về những danh xưng trên đây. Trao đổi với một số vị cao tăng và 
suy xét từ nội dung văn bia, chúng tôi thấy: 
128 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 
Cũng như danh xưng Thiện sĩ, các danh xưng Tri phủ sĩ, Phủ sĩ, 
Huyện sĩ, Tổng sĩ là các danh xưng chứ không phải chức danh, dùng 
để chỉ những người đàn ông đã có tuổi tham gia vào các tổ chức của 
tín đồ Phật giáo của phủ (Phủ sĩ), của huyện (Huyện sĩ), của tổng 
(Tổng sĩ). Chữ Tri đứng trước chữ Phủ sĩ có ý nghĩa tăng thêm sự tôn 
trọng đối với vị Phủ sĩ đó. Các tổ chức của tín đồ Phật giáo ở cấp tổng, 
huyện, phủ mà người tham gia được gọi là Phủ sĩ, Huyện sĩ, Tổng sĩ 
đó, ở thời Lê là những tổ chức không do chính quyền cấp tương 
đương lập ra và quản lý, nhưng những người tham gia có thể là quan 
chức đã về hưu, hoạt động hoàn toàn vì mục đích từ thiện và hoằng 
dương Phật pháp, không có quyền lợi vật chất gì cả. 
Tương tự như danh xưng Tri phủ sĩ của các Phật tử là đàn ông được 
trọng vọng, các bà vãi có danh vọng trong làng, được các Phật tử gọi 
là Tri lão vãi. 
Nhưng danh xưng Phủ sĩ không phải do ai muốn là được, mà là do 
các vị Phật tử trong làng tiến cử ra. Chứng cứ là, trong văn bia Nhự 
Nương Tự Bi ở chùa Tường Quang, thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, 
huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Tộ 4 (1622), chúng tôi thấy có danh 
xưng Câu đương Phủ sĩ: Câu đương Phủ sĩ Nguyễn Văn Chí, tự Phúc 
Cần; Câu đương Phủ sĩ Nguyễn Nhân Hậu, tự Phúc Thành; Câu 
đương Phủ sĩ Nguyễn Viết Thọ, tự Phúc Lộc; Câu đương Phủ sĩ Trần 
Đình Thưởng, tự Tích Lộc. Cụm từ Câu đương Phủ sĩ ở đây cho 
chúng ta biết rằng ở làng đó còn khuyết chân Phủ sĩ ở trên phủ, vì vậy 
có một vài người được làng tạm thời cử ra để tham gia vào tổ chức tín 
đồ Phật giáo ở phủ. 
 3. Về danh xưng Tri kỳ anh đại sĩ và Tri Đốc phủ kỳ anh 
Văn bia không có tiêu đề ở chùa Khánh Lâm, thôn Giới Tế, xã Phú 
Lâm, huyện Tiên Du, dựng năm Vĩnh Thịnh 6 (1710), có khắc danh 
xưng Tri kỳ anh đối với những vị: Tiền Quan viên tử Tri cai xã kiêm 
Trùm trưởng Kỳ anh đại sĩ chính thất Ưu Bà Di Lão vãi Trương Thị 
Trà, hiệu Từ Thông viên thành Chân nhân; Tiền Quan viên tử kiêm 
Tổng xã xã quan Tri Trùm trưởng kỳ anh đại sĩ chính thất Ưu Bà Di 
Lão vãi Trương Thị Môn, hiệu Từ Tri chân nhân; Nho sinh Tri Trùm 
trưởng kiêm kỳ anh đại sĩ Ngô Công Bính, tự Pháp Trương, hiệu Đạo 
Nguyễn Quang Khải. Tìm hiểu một số danh xưng trong Phật giáo 129 
Huy Viên Toàn chân nhân; Quan viên tôn kiêm Trùm trưởng Tri kỳ 
anh đại sĩ hương lão Nguyễn Văn Tài, tự Phúc Tằng Viên Chính chân 
nhân; Phủ sinh kiêm Tổng xã Xã quan Tri kỳ anh đại sĩ trắc thất Ưu 
bà Di Lão vãi Ngô Thị Thảng, hiệu Từ Du Viên Hài chân nhân. 
Văn bia Thanh Vân tự bi ở chùa Thanh Vân, thôn Hoài Bão, xã 
Liên Bão, huyện Tiên Du, dựng năm Chính Hòa 12 (1691) có ghi các 
vị có danh xưng Tri kỳ anh: Tri kỳ anh thượng sĩ Nguyễn Đăng Phụ, 
tự Phúc Vinh; Tri kỳ anh thượng sĩ Đỗ Khả Xứng, tự Phúc Khánh; Tri 
kỳ anh thượng sĩ Nguyễn Thế Khoa, tự Pháp Thịnh; Tri kỳ anh thượng 
sĩ Nguyễn Tâm Bản, tự Phúc An. 
Văn bia chùa Hồng Lô, thôn Trần, phường Hạp Lĩnh, Tp. Bắc Ninh 
có khắc danh xưng Tri Đốc phủ kỳ anh: Hương lão Xã trưởng kiêm 
Tri đốc phủ kỳ anh thôn Sơ của bản xã là Xã trưởng thượng sĩ Nguyễn 
Ngọc Đường, tự là Phúc Bản, hiệu là Cảnh Tiên; Hương lão kiêm Tri 
đốc phủ kỳ anh thượng sĩ Mai Chí Bình, tự Trường Phúc, hiệu Cảnh 
Thọ; Hương lão Trùm trưởng Tri đốc phủ kỳ anh thượng sĩ thôn Ất 
của bản xã là Nguyễn Sĩ Triều, tự Phúc Hậu. 
Vậy, Tri kỳ anh Đại sĩ và Tri Đốc phủ kỳ anh có ý nghĩa gì? Tìm 
hiểu một số bộ Từ điển cổ, chúng tôi được biết, kỳ anh là thuật ngữ để 
chỉ những người đàn ông đã ở độ tuổi 80-90, chữ tri là thể hiện sự tôn 
trọng đối với người đó; đại sĩ, thượng sĩ là cách gọi tôn xưng người 
nào đó trong Phật giáo. Như vậy, cụm từ Tri kỳ anh đại sĩ là cách gọi 
tôn xưng những vị Phật tử là đàn ông đã ở đội tuổi 80-90 một cách 
trân trọng, tôn quý. Còn cụm tự Tri Đốc phủ kỳ anh, ngoài ý nghĩa 
như cụm từ Tri kỳ anh hoặc Tri kỳ anh đại sĩ, có thể còn dùng để gọi 
người đứng đầu tổ chức tín đồ Phật giáo ở cấp phủ. 
Ngoài một số danh xưng trên đây, tìm hiểu văn bia Phật giáo thời 
Lê ở Bắc Ninh, chúng tôi còn thấy một số danh xưng khác chũng cần 
chú ý. Đó là: Tín sĩ, Tín quan, Thạc đức, Thái lão vãi, Tri lão vãi, Lão 
vãi, Tín vãi,... Trong đó, các danh xưng Tín sĩ, Tín quan, Thạc đức là 
dùng cho các Phật tử đàn ông, còn các danh xưng Thái lão vãi, Tri lão 
vãi, Lão vãi, Tín vãi là dùng cho Phật tử đàn bà. 
Tóm lại, trong văn bia Phật giáo thời Lê ở Bắc Ninh có nhiều danh 
xưng mà cho đến nay, chúng tôi chưa thấy có tài liệu nào giải thích 
130 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 12 - 2018 
tường tận về nguồn gốc, ý nghĩa của chúng. Những danh xứng đó 
cũng ít thấy xuất hiện ở văn bia thời Nguyễn và ngày nay thì hầu như 
không thấy ai dùng. Cũng như các danh xưng Ưu Bà di, Ưu Bà tắc,... 
các danh xưng trên đây được dùng rất phổ biến ở thời Lê, điều đó 
chứng tỏ, cùng với sự phát triển của Nho giáo, Phật giáo trong dân 
gian thời kỳ này cũng phát triển rất mạnh và có sắc thái riêng. /. 
________________ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Thiên Phúc Tự bi, KH: 3947- 3948. 
2. Thiên Phúc Tự bi/bản xã thập phương công đức, KH:3965- 3966. 
3. Tân tạo tiền đường bi Khánh Lâm tự- Cấu tác hậu đường thụ mộc di ký, KH: 
3893- 3894. 
4. Hưng công tân tạo, KH: 3901- 3902. 
5. Trùng tu Phúc Lâm Tự bi, KH: 3926- 3927. 
6. Tăng Lục Tự bi- Chư hậu Phật ký, KH: 6689- 6690. 
7. Vô đề, KH: 6691- 6692. 
8. Nhự Nương Tự bi, KH: 2192. 
9. Vô đề, KH: 3885. 
10. Phật Pháp Tăng/ Nguyệt Hằng tự /tạo thiên đài/ vạn đại ký, KH: 6772- 6773- 
6774- 6775. 
11. Thanh Vân Tự bi, KH: 6791- 6792. 
12. Vân La Tự tỉnh bi, KH: 1388- 1389- 1390. 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_mot_so_danh_xung_trong_phat_giao_thoi_le_qua_tu_lie.pdf