Tiếp cận lý thuyết cấu trúc - Chức năng trong đổi mới phương thức quản lý nghiên cứu khoa học và quan điểm vận dụng ở Việt Nam
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến phát triển khoa học và công nghệ, coi khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) đã có nghị quyết riêng về khoa học và công nghệ, Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) đã có kết luận tiếp tục đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ theo định hướng đã được đề ra tại Hội nghị Trung ương 2. Quốc hội đã thông qua luật khoa học và công nghệ tháng 6/2000, có hiệu lực từ 01/01/2001. Chính phủ cũng đã ban hành và triển khai nhiều chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ, đặc biệt là hoạt động khoa học và công nghệ tại các cơ quan, tổ chức nghiên cứu. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, phương thức quản lý kinh tế, trong những năm qua phương thức quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới, hoạt động khoa học và công nghệ đã có bước chuyển biến và đạt một số tiến bộ và kết quả nhất định, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - Xã hội. Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng lần thứ IX đã nghiêm túc kiểm điểm và chỉ ra những hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã được nghiên cứu; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp hơn nhiều so với các nước xung quanh. Các Cơ quan, tổ chức nghiên cứu, các doanh nghiệp và các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt”
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiếp cận lý thuyết cấu trúc - Chức năng trong đổi mới phương thức quản lý nghiên cứu khoa học và quan điểm vận dụng ở Việt Nam
ng chúng không thể được phân loại theo từng điểm một vì lý do có tương đương chức năng. Trụ cột của thuyết chức năng cấu trúc trong những năm 1950-1960 ở Mỹ là Talcott Parsons. Theo ông, xã hội như một hệ thống có thể được nghiên cứu theo bốn yêu cầu chức năng: A (adaptation) “Thích nghi”: Kinh tế G (goal attainemt) “Sự đạt mục tiêu”: Chính trị I (integration) “Hội nhập”: Kiểm soát xã hội /cộng đồng L (latent maintainance) “Duy trì kiểu mẫu lặn, mô hình”: Văn hóa Theo Parsons mọi hệ thống xã hội đều duy trì bốn yêu cầu chức năng trên. Mỗi loại xã hội có cấu trúc và chức năng đặc thù. Cộng đồng khoa học nào, nền khoa học của quốc gia/xã hội nào mạnh nhóm chức năng nào thì khi tiến hành đổi mới phương thức quản lý nghiên cứu khoa học người ta tập trung vào chức năng đó. Tuỳ theo đặc thù xã hội, đặc thù của cộng đồng khoa học cần phải nhấn mạnh thành tố nào thì việc đổi mới phương thức quản lý nghiên cứu khoa học của nền khoa học đó sẽ tập trung mạnh vào các thành tố đó, dù tập trung vào thành tố nào đi chăng nữa nhưng mọi sự đổi mới đều làm cho nền khoa học của xã hội đó ổn định và phát triển. Như vậy, việc nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý nghiên cứu khoa học tại các cơ Tiếp cận lý thuyết cấu trúc - chức năng trong đổi mới phương thức quản lý... Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org 106 106 quan, tổ chức nghiên cứu đa ngành cần phải được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu thực trạng quản lý nghiên cứu khoa học tại các cơ quan/đơn vị khoa học này, từ đó mới có thể phân tích và rút ra những điểm mạnh và điểm yếu trong công tác quản lý nghiên cứu khoa học tại các cơ quan/tổ chức khoa học này. Trên cơ sở đó mới có thể đưa ra được các “điểm nhấn” trong công tác đổi mới phương thức quản lý nghiên cứu khoa học theo quan điểm của Parsons. Parsons đặc biệt nhấn mạnh tới những mục đích cuối cùng của hành động. “Một hành động được coi là hợp lý khi mục đích biện minh cho sự cố gắng”. Phương pháp của ông là phương pháp cấu trúc - chức năng. Cấu trúc là tập hợp những liên hệ tương đối bền vững. Còn chức năng thì đòi hỏi phải hiểu bộ phận bằng mối quan hệ của nó với toàn thể. Theo Parsons các cấp độ xã hội được sắp xếp một cách trật tự, rõ ràng và chúng hòa nhập với nhau theo hai cách: 1) Mỗi một cấp độ thấp hơn phải cung cấp những điều kiện và những năng lực cần thiết cho những mức độ cao hơn; 2) Các cấp độ cao hơn phải chi phối, quản lý được cấp độ thấp hơn theo một hệ thống thứ bậc. Mục tiêu chính của thuyết chức năng cơ cấu là giải thích hiện tượng hoàn toàn không tất nhiên rằng các hệ thống xã hội dù cho có yếu tố rất khác nhau, vẫn hoạt động một cách đáng tin cậy và tồn tại lâu dài. Vậy điều quan tâm chính cái đang tồn tại chứ không phải kiểm tra các khả năng lựa chọn. Thuyết chức năng cơ cấu cơ cấu nhìn nhận xã hội như một dạng cơ cấu trong đó từng bộ phận một đều có một chức năng cụ thể. Mỗi chức năng đó có thể xác định được nhằm để duy trì hệ thống xã hội tổng thể. Tất cả các hình thái xã hội dù lớn hay bé đều hướng tới trạng thái cân bằng. Các thành phần trong xã hội phải hoạt động hoàn hảo và không có xung đột. Mỗi thành phần trong xã hội đều có mối quan hệ khăng khít với thành phần khác để đảm bảo sự duy trì hệ thống tổng thể chung. Trong bối cảnh của xã hội châu Âu nhìn chung, thì nhà lý thuyết chức năng cơ cấu nhấn mạnh vào: trật tư, sự hài hòa, hợp nhất và sự lành mạnh xã hội. Điều này là không đáng ngạc nhiên khi lịch sử châu Âu vào thế kỷ XX với hai cuộc chiến tranh thế giới của nó, tội diệt chủng và những xung đột về giai cấp và hệ tư tưởng. Điều đáng chú ý là các nhà xã hội học Mỹ như Parsons phải đồng ý với Durkheim rằng các quan điểm theo thuyết chức năng cơ cấu là giải thích sáng tỏ nhất đối với thế giới đương thời được đặc trưng bở những sự kiện như vậy. Đối với họ thuết chức năng đã đưa ra một quan điểm vạn năng về cấu trúc xã hội và trong trường hợp của Parsons thì thuyết vạn năng có thể áp dụng được đối với mọi phạm vi của đời sống xã hội. Về cơ bản "cấu trúc” là hệ thống ổn định, còn "chức năng" là hành vi duy trì hệ thống. Các nhà chức năng luận có đề cập đến sự biến đổi, tiến bộ - văn hóa văn minh nhưng đó là sự chuyển từ hệ cân bằng cũ sang cân bằng mới và định hướng cho sự chuyển đổi cân bằng. Do vậy, việc đổi mới phương thức quản lý nghiên cứu khoa học thực chất là chuyển đổi cơ chế quản lý cũ sang sự cơ chế quản lý mới trên cơ sở có sự định hướng của Nhà nước và vẫn đảm bảo sự ổn định của hệ thống khoa học. 3. Quan điểm vận dụng lý thuyết trong đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học công nghệ ở Việt Nam Quản lý là hoạt động có chủ đích, được tiến hành bởi một chủ thể quản lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác định của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý, chủ thể tiến hành những hoạt động theo các chức năng của quản lý như hoạch định mục tiêu, các đường lối thực hiện mục tiêu, tổ chức, chỉ huy, điều hòa phối hợp, kiểm tra, và sử dụng các nguồn lực cơ bản như nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực để thực hiện các mục tiêu đề ra trong một thời gian nhất định. Là một nhánh của khoa học quản lý, quản lý khoa học và công nghệ hiện đại là một lĩnh vực liên ngành, ứng dụng tổng hợp những lý luận và phương pháp của khoa học quản lý và của các bộ môn khoa học khác như kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, điều khiển học, lý thuyết thông tin, lý thuyết hệ thống, toán học... đồng thời hình thành hệ thống lý luận và khái niệm, phạm trù riêng của mình. Trên thực tế, quản lý khoa học và công nghệ diễn ra ở nhiều tầng, nhiều lớp khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia, một ngành, một vùng, một địa phương. Chính vì vậy để nghiên cứu về quản lý khoa học và công nghệ, chúng ta cần hiểu rõ những vấn đề cơ bản có tính lý luận về quản lý và quản lý hành chính nhà nước về khoa học và công nghệ. Đảng Cộng sản Việt Nam là người khởi xướng sự nghiệp đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII) đã đặc biệt coi trọng Nguyễn Thế Hưng Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org 107 Từ những quan điểm đó của Đảng và Nhà nước đã xác lập vai trò, vị thế xã hội của cộng đồng khoa học, đồng thời mở ra cơ hội thăng tiến trong hoạt động khoa học. “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Tạo lập thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ... Có chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc; khuyến khích cán bộ khoa học, kỹ thuật công tác tại các vùng khó khăn...”.3 Với việc xác lập nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành thị trường khoa học - công nghệ; các chủ trương phát triển các ngành khoa học mới tạo luồng cho sự di động cấu trúc; đẩy mạnh tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài, trao đổi chuyên gia... đã tạo điều kiện cho sự thăng tiến cho các nhà khoa học. Từng bước thực hiện dân chủ trong khoa học, xác lập các giá trị, chuẩn mực trong hoạt động khoa học, bảo hộ sở hữu trí tuệ, luật khoa học và công nghệ đã đươợc ban hành tạo môi trường pháp lý cho hoạt động khoa học và công nghệ. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học - công nghệ Quyền sở hữu công nghiệp Cơ chế quản lý Thương mại hoá sản phẩm khoa hoc công nghệ Quyền bán Quyền mua Phương hướng hoạt động tài chính Công tác tổ chức K hoch hóa Nguồn: Quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, 2000 Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ nói chung và cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học nói riêng là chủ trương của Đảng, Nhà nước là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành. Nước ta đã trải qua nhiều năm trong cơ chế quan liêu, bao cấp. Công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, về quản lý khoa học và công nghệ thì lại khá chậm chạp và chưa hiệu quả, mặc dù nhiều chủ trương đổi mới trong lĩnh vực này đã được đề ra ngay từ những năm 1980. Đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đã được thể chế hóa trong Luật khoa học và công nghệ và được nhiều tác giả nghiên cứu ở các khía cạnh khác nhau, theo đó, cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, với tư cách là một bộ phận quan trọng của quản lý khoa học và công nghệ, cần được đổi mới ở các nội dung chính sau: - Thứ nhất, Cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học cần được đổi mới theo hướng xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và thay vào đó là xây dựng một cơ chế có sự kết hợp giữa vai trò quản lý Nhà nước 3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội -2001. Tiếp cận lý thuyết cấu trúc - chức năng trong đổi mới phương thức quản lý... Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org 108 108 với vai trò của thị trường. - Thứ hai, Đổi mới về kế hoạch hóa hoạt động nghiên cứu khoa học và phương pháp xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Quá trình xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học phải có sự tham gia của đông đảo các thành phần trong xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp. Việc xác định nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phải kết hợp với thực tiễn và yêu cầu của thị trường. Nhà nước quyết định các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng yếu, liên ngành và dài hạn; các bộ, ngành quyết định nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cụ thể gắn với điều kiện thực tế của mình; các tổ chức khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp căn cứ vào yêu cầu thực tế của sản xuất, đời sống và kế hoạch chung của bộ, ngành, chính phủ để xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học theo các quy định của pháp luật. - Thứ ba, Đổi mới quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Cần đa dạng hóa hình thức giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách Nhà nước. Tùy theo tính chất của từng nhiệm vụ nghiên cứu khoa học mà có thể giao trực tiếp hoặc tuyển chọn, đấu thầu... Quá trình xét, tuyển để giao nhiệm vụ, đánh giá, nghiệm thu, kết quả nghiên cứu... phải khách quan, chính xác, đảm bảo dân chủ thông qua cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần xã hội. - Thứ tư, Đa dạng hóa nguồn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tăng nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu khoa học, thực hiện chính sách ưu đãi tín dụng đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và tăng cường khai thác các nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động này. - Thứ năm, Đổi mới cơ chế quản lý tổ chức nghiên cứu khoa học và nhân lực nghiên cứu khoa học. Từng bước thực hiện phi hành chính hóa đối với các tổ chức nghiên cứu khoa học và phi công chức hóa đối với tất cả các cán bộ nghiên cứu khoa học, tăng quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu khoa học. - Thứ sáu, Xây dựng và phát triển thị trường công nghệ trong đó bộ phận quan trọng là thị trường sản phẩm nghiên cứu khoa học. Cần xây dựng thiết chế pháp luật quy định phương thức vận hành của thị trường, nâng cao chất lượng, tạo nhu cầu và tăng nguồn cung đối với các sản phẩm nghiên cứu khoa học. - Thứ bảy, Bảo đảm gắn kết giữa khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo được thực hiện gắn với các trường đại học, các tổ chức, cơ quan nghiên cứu và phát triển; Gắn kết giữa khoa học và công nghệl; giữa khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật trên cơ sở những nghiên cứu liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp và phát triển bền vững đất nước. 4. Thay lời kết Nghiên cứu khoa học là một dạng hoạt động đặc thù mang tính sáng tạo nhất của con người, là nhân tố tạo ra và thúc đẩy các quá trình đổi mới. Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trước tiên phải đáp ứng được các yêu cầu xuất phát từ chính những hoạt động này. Đổi mới cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học cần xuất phát từ mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ, phù hợp với tính chất, đặc điểm của các hoạt động nghiên cứu khoa học, đáp ứng được các yêu cầu của quản lý hiện đại, xu thế vận động, đổi mới của hệ thống khoa học và công nghệ, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nước, quốc tế, và phải căn cứ vào tình hình thực tế của mỗi tổ chức, hệ thống. Việc vận dụng cách tiếp cận lý thuyết cấu trúc - chức năng vào hoạt động quản lý nghiên cứu ở nước ta trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết bởi nó giúp cho cơ quan quản lý, hoạch định chính sách có một cái nhìn tổng thể cấu trúc xã hội, mà ở đó khoa học và công nghệ như là những bộ phận cấu thành không thể thiếu để cho cấu trúc đó phát triển. Nguyễn Thế Hưng Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org 109 Tài liệu tham khảo 1. Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010. (Ban hành kèm theo Quyết định số 272/2003/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ 2. Pierre Ansart, Các trào lưu xã hội học hiện đại, Nxb TPHCM, 2001. 3. E.A. Capitonov, Xã hội học thế kỷ XX - Lịch sử và công nghệ, NXB, ĐHQG Hà Nội, 2003. 4. Gunter Endruweit (Chủ biên), Các lý thuyết xã hội học hiện đại, NXB Thế giới, Hà Nội, 1999. 5. Hermann Korte, Nhập môn lịch sử xã hội học. NXB Thế giới, 1997. 6. Vũ Quang Hà (dịch), Các lý thuyết xã hội học, tập 1&2, NXB __ại học Quốc gia Hà nội, 2001 7. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, NXB KHXH, Hà nội, 2002. 8. Nguyễn Khắc Viện, Tự Điển xã hội học, NXB 9. Tạ Minh (Chủ biên), Nhập môn xã hội học, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2001. 10. Bùi Quang Dũng, Nhập Môn Lịch sử xã hội học, Nxb KHXH, Hà Nội, 2004 11. Hà Ngân Dung, Các nhà xã hội học thế kỷ XX, Nxb KHXH, Hà Nội, 2001 12. Tài liệu Hội thảo “Chính sách phát triển khoa học xã hội, cơ chế hoạt động và quản lý hoạt động khoa học xã hội: thực trạng và những vấn đề đặt ra”. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức ngày 13 tháng 2 năm 2007. Các bài phát biểu gồm: 1. Các quy định hiện hành về chính sách phát triển khoa học xã hội, về cơ chế hoạt động và quản lí hoạt động khoa học xã hội:thực trạng và những vấn đề đặt ra của PGS.TS. Võ Khánh Vinh. 2. Cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học xã hội qua các văn bản hiện nay của PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh. 3. Nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học xã hội - sự cần thiết và các nội dung nghiên cứu của PGS.TS. Mai Quỳnh Nam. 4. Về cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về khoa học xã hội của PGS.TS. Trần Đình Hảo. 5. Đánh giá bước đầu thực trạng cơ chế đầu tư phân bổ và sử dụng ngân sách Nhà nước đối với khoa học xã hội của TS. Phạm Văn Vang
File đính kèm:
- tiep_can_ly_thuyet_cau_truc_chuc_nang_trong_doi_moi_phuong_t.pdf