Tiền di động và triển vọng phát triển đối với Việt Nam
Hệ thống tiền di động (mobile money) có lợi ích kép, vừa là một phương tiện để phổ cập dịch vụ tài chính
tới người dân và doanh nghiệp nhỏ và vừa là một thị trường mới tạo cơ hội kinh doanh cho các nhà cung
cấp. Trong thời đại 4.0 hiện nay, tiền di động cũng là giải pháp phát triển kinh tế số quan trọng đặc biệt cho
các nước đang phát triển. Dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu thứ cấp từ nhiều nguồn,
bài báo đã làm rõ chuỗi giá trị gia tăng, từ đó chỉ rõ các chủ thể có thể tham gia cung cấp cũng như các
mô hình cung cấp dịch vụ tiền di động. Bài báo phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của tiền
di động tại các thị trường dựa trên kinh nghiệm triển khai tiền di động tại nhiều quốc gia đang phát triển
trên thế giới. Áp vào trường hợp của Việt Nam, có thể thấy Việt Nam đang có các điều kiện về thị trường và
xã hội tốt để phát triển tiền di động. Bài báo cũng đề xuất hướng chính sách cũng như kinh nghiệm phát
triển ở phía doanh nghiệp triển khai để dịch vụ tiền di động có thể thực sự phát triển được tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiền di động và triển vọng phát triển đối với Việt Nam
ề hệ thống kỹ thuật công nghệ, hệ thống các đại lý cũng như yêu cầu chi phí để đảm bảo hoạt động (các trung tâm hỗ trợ, nhân việc hỗ trợ thị trường, đánh giá chấp lượng, kế toán). Về doanh thu, mô hình kinh doanh dịch vụ tiền di động dựa trên số lượng lớn các khoản phí thu nhỏ do vậy tính kin tế của quy mô là điều kiện để doanh nghiệp triển khai có thể thu được lợi nhuận. Thị trường tài chính nội địa chưa phát triển tại nhiều quốc gia đang phát triển có thể rất tiềm năng đối với tiền di động do có thể đạt được tính kinh tế của quy mô. Lepoutre và Oguntoye (2018) nghiên cứu sự phát triển của ệ t ống tiền di động tại hai quốc gia điển hình là Kenya và Nigeria rút ra rằng, sở dĩ tiền di động phát triển thành công tại Kenya và thất bại tại Nigeria do M-Pesa tại Kenya đã đạt được hiệu ứng mạng do đạt được số lượng khách hàng tăng TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 09 (194) - 2019 43Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn của các ngân hàng, cho rằng M-Pesa cạnh tranh không bình đẳng với các dịch vụ thanh toán tương tự tại Kenya. Các ngân hàng cho rằng M-Pesa cần phải được điều chỉnh bởi cùng các quy định chặt chẽ áp dụng đối với các dịch vụ ngân hàng. Tuy vậy, sau đó, Ngân hàng Trung ương quyết định rằng M-Pesa không phải là dịch vụ ngân hàng do nó không nhận tiền gửi và không phải tuân thủ các quy định đầy đủ về quản lý đối với dịch vụ ngân hàng tương tự (xem Lashitew và cộng sự 2019). Thông thường các dịch vụ tài chính yêu cầu định danh khách hàng khá chặt chẽ. Các yêu cầu định danh khách hàng đối với dịch vụ di động nới lỏng hơn. Dịch vụ tiền di động có thể áp dụng quy định linh hoạt để vừa tạo điều kiện thuận lợi phát triển thị trường vừa đảm bảo yếu tố thận trọng của các dịch vụ tài chính. Đối với những khoản tiền gửi nhỏ có thể yêu cầu mức thận trọng thấp hơn những khoản tiền gửi giá trị cao. Khi quy định dạng này áp dụng tại Sri lanka, dịch vụ tiền di động trước đó đình trệ đã phát triển nhanh chóng (Penicaud, 2013). Đối với trường hợp của Nigeria, do lo ngại về vấn đề độc quyền có thể xuất hiện trong dịch vụ tiền di động, thêm nữa, do thời điểm ra đời của dịch vụ tiền di động tại Nigeria trùng vào thời điểm khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, Ngân hàng trung ương đưa ra các quy định chặt chẽ đối với dịch vụ tiền di động. Theo đó, ưu tiên các ngân hàng giữ vai trò nhà cung cấp dịch vụ chính, yêu cầu kết nối giữa các nhà mạng tham gia cung cấp dịch vụ và áp dụng yêu cầu định danh khách hàng của dịch vụ ngân hàng vào dịch vụ tiền di động. Cuối năm 2011, Ngân hàng trung ương Nigeria cấp 16 giấy phép cung cấp dịch vụ tiền di động cùng lúc. Số lượng lớn các giấy phép cho dịch vụ còn mang tính thử nghiệm, cùng với các quy định về kết nối và định danh chặt chẽ làm các nhà mạng không muốn đầu tư vào dịch vụ do lo ngại không thu hồi được vốn. Đây được xem là nguyên nhân chính dẫn tới việc tiền di động không phát triển được ở quốc gia này (xem Lepoutre và Oguntoye 2018). Thứ ba, yếu tố kinh tế - xã hội Yếu tố cuối cùng ảnh hưởng tới mức độ áp dụng tiền di động là yếu tố kinh tế xã hội. Tiền di động yêu cầu mức độ phát triển kinh tế - xã hội nhất định. Các cá nhân có kỹ năng sử dụng dịch vụ di động và việc biết chữ sẽ làm cho việc sử dụng dịch vụ dễ dàng hơn. Đối với cộng đồng, thói quen sử dụng các dịch vụ tài chính hiện tại cũng liên quan tới việc chấp nhận sử dụng tiền di động. Chẳng hạn Arnado (2012) chỉ ra rằng người dân tại nhiều vùng ở Phillipin có thói quen trao đổi bằng gia súc hoặc quà tặng thay vì dùng tiền mặt do vậy từ chối sử dụng dịch vụ tiền di động. Ở mức vĩ mô, cấu trúc nền kinh tế và xã hội ảnh hưởng sâu sắc tới việc chấp nhận sử dụng dịch vụ tiền di động. Chẳng hạn, dịch vụ M-PESA ban đầu được thử nghiệm để trở thành phương liện thanh toán các khoản nợ nhỏ, nhưng sau đó Safaricom đã định vị lại M-PESA tập trung chủ yếu vào thị trường chuyển tiền nội địa. Tại Kenya, cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, việc di cư dẫn tới mối liên hệ chặt chẽ giữa dân cư thành phố với dân cư nông thôn. Mối quan hệ ấy tạo nhu cầu chuyển tiền từ các thành phố lớn về các vùng nông thôn. 4. Triển vọng đối với Việt Nam Tại Việt Nam việc truy cập và sử dụng các dịch vụ tài chính truyền thống thông qua ngân hàng và các tổ chức tài chính còn hạn chế. Theo số liệu điều tra của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF năm 2017, chỉ 30% người trưởng thành trên 25 tuổi tại Việt Nam có tài khoản ngân hàng hoặc tài khoản tại tổ chức tài chính ngoài ngân hàng. Con số này chỉ cao hơn Campuchia, tương đồng với Lào và Myanmar và thấp hơn các nước còn lại trong khu vực Đông Nam Á cũng như thấp hơn mức trung bình của các nước có mức thu nhập trung bình thấp giống Việt Nam (Bảng 1). Số liệu điều tra của IMF cũng cho thấy tỷ lệ người trưởng thành sử dụng các phương tiện điện tử như điện thoại di động, Internet để truy cập vào tài khoản ở mức 7% tuy còn thấp nhưng không thấp hơn quá nhiều so với mức 8% trung bình của các nước có thu nhập trung bình thấp trên thế giới. Tuy vậy, tỷ lệ người trưởng thành trên 25 tuổi có tài khoản tiền di động chỉ đạt 2%, lại thấp hơn đáng kể so với mức 5% trung bình của các nước này. Như vậy có thể thấy dịch vụ tiền di động đang có dung lượng TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄPSoá 09 (194) - 2019 44 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn thị trường khá lớn có thể khai thác tại Việt Nam. Nghiên cứu thực tiễn chỉ ra rằng các nhà mạng quyết định tham gia vào thị trường tiền di động thường cần mấy điều kiện sau: (1) thị phần thoại đáng kể để đảm bảo tính kinh tế của quy mô khi triển khai dịch vụ, (2) thị trường hoạt động có tỷ lệ sử dụng dịch vụ di động từ 20-60%, (3) có sẵn mạng lưới đại lý dịch vụ nạp thẻ, (3) sẵn sàng đầu tư lớn, (4) có lãnh đạo quyết tâm, tập trung cho chiến dịch marketing sản phẩn và muốn tạo sản phẩm khác biệt so với đối thủ (Payment Innovations Working Group 2012). Tại Việt Nam, thị trường viễn thông hiện được xác lập với ba nhà mạng lớn là Viettel, VNPT, Vinaphone và Mobifone. Năm 2016, thị phần thuê bao điện thoại đi động (2G và 3G) của ba nhà mạng này lần lượt là 47%, 22% và 26% (Bộ Thông tin và Truyền thông 2017). Hiện Viettel và VNPT đều đã triển khai dịch vụ thanh toán điện tử và Mobifone đang thực hiện thủ tục xin phép triển khai. Thị trường thế chân kiềng như vậy là điều kiện tốt để các nhà mạng triển khai dịch vụ tiền di động vừa đảm bảo được dung lượng thị trường để đạt được tính kinh tế của quy mô lại có thể tránh được sự xuất hiện của độc quyền trong cung cấp dịch vụ này. Tuy vậy, các nhà mạng cũng cần thêm yếu tố chiến lược, liên kết và đầu tư đúng đắn mới có thể khai thác được thị trường và phát triển dịch vụ tiền di động tại Việt Nam. Một thuận lợi nữa cho triển khai dịch vụ tiền di động tại Việt Nam là dân số trẻ, trình độ dân trí cao. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, tới tháng 7/2019 Việt Nam có 97 triệu dân. Độ tuổi trung bình của dân số là 31 tuổi. Tỉ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 95,8% (Tổng cục Thống kê 2019). Tỷ lệ dân cư sử dụng internet năm 2016 là 54%. Tỷ lệ thuê bao di động hoạt động trong dân cư đạt 139% (Bộ Thông tin và Truyền thông 2017). Dân số trẻ hòa nhập với công nghệ tốt sẽ giúp dịch vụ hiện đại như tiền di động dễ dàng được chấp nhận hơn. 5. Kết luận Tiền di động giúp giảm chi tiêu tiền mặt, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh tế - tài chính của người dân, đẩy mạnh tốc độ luân chuyển tiền tệ. Ở một khía cạnh khác tiền di động được xem là giải pháp nhằm phổ cập dịch vụ tài chính tới những người nghèo, tới những người dân tại vùng sâu, vùng xa chưa tiếp cận được với các dịch vụ tài chính truyền thống, nhờ đó phát triển khu vực kinh tế này. Như vậy, dịch vụ tiền di động có thể thúc đẩy phát triển kinh tế theo hướng kinh tế số và cũng như phát triển tình hình xã hội của quốc gia. Bài báo đã làm rõ chuỗi giá trị gia tăng, từ đó chỉ rõ các chủ thể có thể tham gia cung cấp cũng như các mô hình cung cấp dịch vụ tiền di động. Bài báo cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển của tiền di động tại các thị trường dựa trên kinh nghiệm triển khai tiền di động tại nhiều quốc gia đang phát triển trên thế giới. Áp 7 trên thế giới. Tuy vậy, tỷ lệ người trưởng thành trên 25 tuổi có tài khoản tiền di động chỉ đạt 2%, lại thấp hơn đáng kể so với mức 5% trung bình của các nước này. Như vậy có thể thấy dịch vụ tiền di động đang có dung lượng thị trường khá lớn có thể khai thác tại Việt Nam. Bảng. Mức sử dụng dịch vụ tài chính truyền thống và tài chính điện tử năm 2017 tại một số quốc gia khu vực Đông Nam Á Quốc gia Mức thu nhập % người trưởng thành (25+) có tài khoản ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác % người trưởng thành (25+) sử dụng điện thoại di động hoặc internet để truy cập vào tài khoản ngân hàng % người trưởng thành (25+) có tài khoản tiền di động Indonesia Trung bình thấp 49% 6% 3% Campuchia Trung bình thấp 19% 5% 5% Lào Trung bình thấp 32% 1% - Myanmar Trung bình thấp 31% 1% 0% Malaysia Trung bình cao 86% 29% 9% Philippines Trung bình thấp 37% 7% 5% Singapore Cao 98% 51% 11% Thái Lan Trung bình cao 83% 15% 7% Việt Nam Trung bình thấp 30% 7% 2% Trung bình các nước thu nhập trung bình thấp 60% 8% 5% Nguồn: IMF, 2018 Nghiên cứu thực tiễn chỉ ra rằng các nhà mạng quyết định tham gia vào thị trường tiền di động thường cần mấy điều kiện sau: (1) thị phần thoạ đáng kể để đảm bảo tính kinh tế của quy mô khi triển khai dịch vụ, (2) thị trường hoạt động có tỷ lệ sử dụng dịch vụ di động từ 20-60%, (3) có sẵn mạng lưới đại lý dịch vụ nạp thẻ, (3) sẵn sàng đầu tư lớn, (4) có lãnh đạo quyết tâm, tập trung cho chiến dịch marketing sản phẩn và muốn tạo sản phẩm khác biệt so với đối thủ (Payment Innovations Working Group 2012). Tại Việt Nam, thị trường viễn thông hiện được xác lập với ba nhà mạng lớn là Viettel, VNPT, Vinaphone và Mobilefone. Năm 2016, thị phần thuê bao điện thoại đi độ g (2G và 3G) của ba nhà mạng ày lần lượt là 47%, 22% và 26% (Bộ Thông tin và Truyền thông 2017). Hiện Viettel và VNPT đều đã triển khai dịch vụ thanh TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Soá 09 (194) - 2019 45Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn vào trường hợp của Việt Nam, có thể thấy Việt Nam đang có các điều kiện về thị trường và xã hội tốt để phát triển tiền di động. Tuy vậy, để tiền di động thực sự phát triển được, Việt Nam cần lưu ý một số điểm sau. Về mặt chính sách, hiện nay, dịch vụ tiền di động thông qua ví điện tử có kết nối với tài khoản ngân hàng đã được cho phép và triển khai. Tuy vậy, Chính phủ còn đang cân nhắc dịch vụ tiền di động không cần kết nối với tài khoản ngân hàng. Kinh nghiệm các nước cho thấy chính sách quá chặt chẽ liên quan tới định danh khách hàng, các giới hạn cũng như liên quan tới mức phí dịch vụ, giới hạn về giá trị tiền giao dịch, các quy định về điều kiện đại lý đều có thể cản trở dịch vụ này phát triển. Vì vậy, ngân hàng nhà nước cần cân nhắc linh hoạt các yếu tố để vừa đảm bảo được an ninh tiền tệ, vừa thúc đẩy sự phát triển của tiền di động. Đối với các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ tiền di động, sau khi tham khảo các mô hình trên thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng chủ thể chính triển khai tiền di động là các công ty viễn thông đã được cấp giấy phép trung gian thanh toán. Như vậy, nếu dịch vụ được chính phủ thông qua, có hai nhà mạng là Viettel và VNPT thoả mãn được điều kiện này. Hiện nay Mobifone cũng đang trong quá trình xin giấy phép. Để phát triển và duy trì một hệ thống dịch vụ tiền di động có lợi nhuận, các nhà mạng phải xây dựng các năng lực bao gồm marketing và phân phối, quản trị mạng lưới đại lý, quản trị hệ thống và phân tích, phát triển sản phẩm nhanh, năng lực trung gian tài chính. Hiện nay, khó có thể có một doanh nghiệp đơn lẻ nào, cho dù là nhà mạng, ngân hàng hay các doanh nghiệp công nghệ tài chính có thể có đầy đủ các năng lực như vậy. Chẳng hạn các nhà mạng có hệ thống mạng lưới đại lý và phân phối tiền có thể tiết kiệm được chi phí gửi tiền và rút tiền tới 40% so với ngân hàng (McKinsey&Company 2018). Tuy vậy, nếu hệ thống tiền điện tử không cho phép kết nối với tài khoản ngân hàng, cũng như mở rộng ra các dịch vụ tài chính khác đi kèm như nhận tiền gửi, đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ sẽ bị giới hạn đáng kể, làm giảm tính kinh tế của quy mô. Khi xem xét tới khía cạnh mở rộng này các nhà mạng lại thiếu kinh nghiệm và năng lực giữ quản trị tiền gửi như là một phần của trung gian tài chính. Do vậy, việc hợp tác chặt chẽ giữa nhà mạng và các ngân hàng sẽ là điều kiện để phát triển dịch vụ tiền di động tại Việt Nam. Tài liệu tham khảo: Arnado, J. (2012). Hidden in a Coke bottle: Modernity, gender and informal storing of money in Philippine indigenous communities. IMTFIWorking Paper 2012–15. University of California, Irvine, US. Bộ Thông tin và Truyền thông, 2018, Sách trắng Công nghệ Thông tin và Truyền thông. Diniz E.H., Albuquerque J.P., Cernev A.K., 2011, Mobile money and Payment: A literature review based on academic and practitioner-oriented publications (2001-2011), Proceedings of SIG GlobDev Fourth Annual Workshop, Shanghai, China, December 3, 2011. Donovan K.P, 2014, Mobile money, University of Cape Town, South Africa. Tải từ https://doi. org/10.1002/9781118767771.wbiedcs023 ngày 30/7/2019 GSMA, 2018, Mobile Money policy and Regulatory hanbook, 2018. GSMA, 2019, State of Industry Report on Mobile Money 2018. IMF, 2018, Financial Access Survey Data. Tải từ https://data.imf.org/?sk=E5DCAB7E-A5CA-4892-A6EA- 598B5463A34C ngày 30/7/2019 Lashitew A.A., Tulder R.V., Liasse Y., 2019, Mobile phones for financial inclusion: What explains the diffusion of tiền di động innovations? Research Policy, 48(5), 1201- 1215. Lepoutre J., Oguntoye A., 2018, The (non-)emergence of tiền di động systems in Sub-Saharan Africa: A comparative multilevel perspective of Kenya and Nigeria, Technological Forecasting and Social Change, 131, 262-275. Mawajje J., Lakuma P., 2019, Macroeconomic effects of Mobile money: evidence from Uganda, Financial Innovation, 5 (1), Article number 2. McKinsey&Company, 2018, Mobile money in emerging markets: The business case for financial inclusion, Global Banking, March, 2019. Payment Innovations Working Group, Mobile Money Business Models, April 2012, NetHope. Tải từ https:// www.slideshare.net/NetHopeOrg/mobile-money-business- models ngày 30/7/2019 Pénicaud, C. (2013). State of the industry: Results from the 2012 GlobalMobileMoney Adoption Survey. London, UK: GSMA. Tổng cục Thống kê, 2019, Số liệu dân số Việt Nam. Tải từ www.gso.gov.vn. TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄPSoá 09 (194) - 2019
File đính kèm:
- tien_di_dong_va_trien_vong_phat_trien_doi_voi_viet_nam.pdf