Thực trạng và một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của các câu lạc bộ đội, nhóm trong rèn luyện kĩ năng mềm cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải phân hiệu thành phố Hồ Chí Minh
Bất kì một quốc gia hay chế độ xã hội nào muốn tồn
tại và phát triển đều phải quan tâm đến việc bồi dưỡng và
phát huy vai trò của thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên (SV).
SV thuộc tầng lớp trí thức của xã hội, là đội ngũ trẻ, năng
động, sáng tạo, ham học hỏi và tiếp thu tri thức mới rất
nhanh. Vì vậy, việc giáo dục, bồi dưỡng cho SV trở thành
những người có ích cho xã hội là vấn đề cấp thiết, quan
trọng. Để thành công trong quá trình “lập thân, lập
nghiệp”, mỗi SV trong quá trình học tập và rèn luyện tại
trường đại học cần phải tích lũy cả kiến thức và các kĩ
năng mềm cần thiết để sau khi ra trường đáp ứng được
các yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực.
Hiện nay, Trường Đại học Giao thông vận tải, phân
hiệu tại TP. Hồ Chí Minh, ngoài sự nỗ lực của Nhà trường,
các thầy cô trực tiếp giảng dạy, các cố vấn học tập thì hoạt
động của các câu lạc bộ (CLB) đội, nhóm cũng đóng một
vai trò không nhỏ trong việc cải thiện và nâng cao các kĩ
năng cần thiết cho SV. Các tổ chức Đoàn, Hội coi đây là
nội dung hoạt động, là chương trình hành động đầy trách
nhiệm đối với SV. Để đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng
của SV khi tham gia các CLB đội, nhóm thì việc đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của các CLB đội, nhóm
là điều cần thiết. Nó góp phần xây dựng tổ chức Đoàn, Hội
trở thành mái nhà chung để giáo dục và rèn luyện SV.
Trước thực tiễn đó, trong nhiều năm liền, Đoàn Thanh niên
và Hội SV Trường Đại học Giao thông vận tải, phân hiệu
tại TP. Hồ Chí Minh đã nỗ lực tìm kiếm các phương thức
và mô hình hoạt động mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Trong đó, việc xây dựng và phát triển các CLB đội,
nhóm SV theo sở thích, chuyên môn, năng khiếu là một
hướng đi mang lại hiệu quả thiết thực giúp nâng cao chất
lượng hoạt động của Đoàn, Hội cũng như hỗ trợ tích cực
cho SV trong học tập và rèn luyện
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của các câu lạc bộ đội, nhóm trong rèn luyện kĩ năng mềm cho sinh viên trường Đại học Giao thông Vận tải phân hiệu thành phố Hồ Chí Minh
B đội nhóm và cựu SV chưa từng tham gia các CLB đội nhóm. Kết quả cụ thể được thể hiện ở bảng sau: Bảng đánh giá của cựu SV về vai trò của CLB đội, nhóm trong việc hình thành kĩ năng mềm cho SV (tỉ lệ %) Đối tượng Vai trò của các CLB đội, nhóm trong việc hình thành kĩ năng mềm cho SV Có Ít Không Cựu SV chưa từng tham gia CLB đội, nhóm 43,5 39,5 19,0 Cựu SV đã từng tham gia CLB đội, nhóm 72,5 18,5 9,0 Bảng trên cho thấy, những cựu SV đã từng tham gia CLB đội, nhóm đánh giá các CLB đội, nhóm có vai trò quan trọng trong việc hình thành kĩ năng mềm cho SV cao hơn những cựu SV chưa từng tham gia CLB đội nhóm. Điều đó cho thấy, chỉ khi nào SV trực tiếp tham gia sinh hoạt trong các CLB đội, nhóm mới đánh giá được vai trò và tầm quan trọng của các CLB đội, nhóm trong việc hình thành kĩ năng mềm trong SV. Thực tiễn hoạt động của các mô hình CLB đội, nhóm Trường Đại học Giao thông vận tải, phân hiệu tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy, đây là môi trường thuận lợi để SV trở thành chủ thể của hoạt động, phát huy được tính sáng tạo của mình. Thực sự trở thành nơi các bạn trẻ chia sẻ kiến thức trong học tập, rèn luyện kĩ năng sống cho bản thân. Các CLB đội, nhóm SV cũng chính là kênh thông tin tuyên truyền hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các bạn SV; đồng thời là nơi phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố tích cực bổ sung cho lực lượng cán bộ đoàn, hội nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp các bạn SV. 2.3. Một số vấn đề tồn tại và khó khăn của các câu lạc bộ đội, nhóm trong quá trình hoạt động Bên cạnh những kết quả và lợi ích của các mô hình CLB đội, nhóm mang lại thì còn đó những tồn tại nhất định như sau: - Một số hoạt động của các CLB đội, nhóm còn nặng về tính hình thức; điều kiện về kinh phí và cơ sở vật chất hoạt động CLB vẫn còn hạn chế. Vẫn còn một số lượng lớn SV thờ ơ với phong trào chung, không tự giác rèn luyện bản thân trong các CLB đội, nhóm. - CLB thu hút, tập hợp đoàn viên rất tốt nhưng trên tinh thần tự nguyện, thiếu ràng buộc nên tổ chức đôi khi lỏng lẻo, thiếu tính kỉ luật; số lượng thành viên thường xuyên thay đổi dẫn đến nhiều hoạt động dài hơi bị thiếu nhân lực và thất bại trong một thời gian ngắn. - Trong quá trình hoạt động, mục tiêu đề ra còn chung chung, chưa xây dựng được nhiều chương trình sinh hoạt hấp dẫn và thiết thực để thu hút được nhiều thành viên tham gia. Đôi lúc trong sinh hoạt còn ôm đồm quá nhiều nội dung, nhiều mục tiêu, nhiều kì vọng. Không thể chỉ với một vài chương trình điểm mà hi vọng có thể truyền tải tất cả những thông điệp, kĩ năng cần thiết đến cho thành viên trong CLB đội, nhóm. Điều đó gây ra nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện các nội dung tiếp theo. - Khó khăn trong công tác xây dựng và phát triển bởi các yếu tố khách quan như: địa điểm sinh hoạt chưa ổn định, vật dụng sinh hoạt còn thiếu, Ban chủ nhiệm được bầu ra chủ yếu dựa trên sự nhiệt tình, năng động mà chưa có sự đào tạo bài bản Ban chủ nhiệm và Ban điều hành thường gặp khó khăn trong công tác huấn luyện và đào tạo nhân sự kế thừa nên thường gây ra sự hụt hẫng và bị động về nhân sự. Các thành viên công việc chủ yếu là học tập nên gặp khó khăn trong việc sắp xếp thời gian đi sinh hoạt đều đặn 2.4. Một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của các câu lạc bộ đội, nhóm trong rèn luyện kĩ năng mềm cho sinh viên Để đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng, sở thích; tạo dựng môi trường thuận lợi để rèn luyện và phát triển năng lực cũng như kĩ năng mềm cho SV, nắm bắt diễn biến tư tưởng của đoàn viên, SV tốt hơn; để các CLB đội, nhóm thực sự trở thành “cánh tay nối dài” của Đoàn, Hội, hỗ trợ đắc lực trong việc đoàn kết, tập hợp đoàn viên, SV, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau đây: Thứ nhất, đối với SV phải tự ý thức được những lợi ích khi tham gia các CLB đội, nhóm (đây là yếu tố quan trọng nhất). Mỗi thành viên phải tự cam kết hoạt động hiệu quả, phải xác định rõ: mỗi thành viên là một chủ thể tích cực trong CLB đội, nhóm; chủ động hoàn thành nhiệm vụ cụ thể được giao của mình; chủ động tham sinh hoạt đều đặn, tích cực hoạt động xây dựng CLB. Tự giác rèn luyện những kĩ năng cơ bản và cần thiết như: giao tiếp; thuyết trình; làm việc nhóm; quản lí thời gian; nhận định vấn đề... SV khi tham gia sinh hoạt trong các CLB chính là cơ hội giao lưu, học hỏi những điều hay, lẽ phải, để tránh khỏi các tệ nạn xã hội khác, những cám dỗ vật chất hàng ngày. Mỗi SV phải luôn có tinh thần đoàn kết và hỗ trợ đồng đội, luôn thể hiện tinh thần trách nhiệm trong sinh hoạt; hạn chế ý kiến và cảm giác cá nhân, gạt bỏ đi cái “tôi” không cần thiết. Cần tránh sự xung đột trong quá trình hoạt động, nếu xảy ra thì cần giải quyết dựa trên sự nhất trí của toàn bộ thành viên. Hỗ trợ đồng đội để thực hiện mục tiêu chung, không vì mục đích riêng của mỗi cá nhân riêng lẻ. Thứ hai, đối với tổ chức Đoàn, Hội, cần phải xây dựng các CLB kĩ năng cho SV có hệ thống trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, kĩ năng, công tác xã hội, sở thích, đặc biệt các CLB học thuật nhằm tạo môi trường cho SV tham gia ngoài giờ học. Luôn có sự đổi mới trong nội dung sinh hoạt nhằm thu VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 176-179; 199 179 hút được sự quan tâm, tham gia của đoàn viên, thanh niên. Các CLB này có thể trở thành một đầu mối để Đoàn, Hội đánh giá năng lực sáng tạo, năng lực phấn đấu của SV, từ đó cùng với kết quả học tập có thể phát hiện SV ưu tú bổ sung nguồn nhân lực cho Đoàn, Hội và có thể giới thiệu cho Đảng. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống CLB, Đoàn và Hội vẫn quan tâm phát huy vai trò của Liên chi đoàn và các chi đoàn, đảm bảo quy tắc sinh hoạt của Đoàn Thanh niên và Hội SV. Đây là kênh rất quan trọng để phát hiện các nhân tố tích cực. Các hoạt động cần thiết thực, phù hợp với đặc thù từng ngành học khác nhau, kích thích được tính sáng tạo và sự tham gia của SV. Thứ ba, đối với CLB đội, nhóm cho SV, khi tổ chức các chương trình phải có sự sáng tạo, phá vỡ lối mòn quen thuộc, tạo cho các bạn SV sự mới lạ và kích thích mọi người tham gia. Mỗi chương trình sinh hoạt phải có kế hoạch thật chi tiết, tham khảo ý kiến của nhiều đối tượng khác nhau. Trong quá trình tổ chức phải mở đầu thật ấn tượng, phải đạt được mục tiêu từ sự bất ngờ mang đến niềm đam mê, khám phá; luôn luôn tạo cảm giác “ai cũng là trung tâm và có trách nhiệm với hành động của mình” bằng cách tạo thật nhiều công việc, nhiều cơ hội để các hội viên thể hiện, để không ai cảm thấy lạc lõng trong tổ chức. Kết thúc mỗi hoạt động cần để lại một ấn tượng đẹp đối với người tham gia và tạo động lực cho những lần hoạt động tiếp theo. Trong quá trình hoạt động, cần có sự ghi nhận và đánh giá sát sao các kết quả đạt được để giúp đỡ, tuyên dương kịp thời các gương điển hình trong các buổi tổng kết, tạo được sự thi đua giữa các CLB, giữa các thành viên với nhau. Hệ thống CLB phải được xây dựng theo phương châm lấy hiệu quả làm căn cứ, tránh việc xây dựng CLB một cách hình thức, phô trương. Cụ thể, khi tổ chức một chương trình hay lập kế hoạch cho các hoạt động cần phải xác định các nội dung sau: - Mục tiêu tổ chức sinh hoạt cộng đồng, kĩ năng cụ thể, cần phải có định hướng sát với mục tiêu ban đầu đặt ra của các CLB đội, nhóm. - Có đủ thời gian thảo luận và những quyết định mang tính cân nhắc sự lợi hại và sự phát triển ra sao, tác động của các hoạt động đó đến đâu. - Lập kế hoạch, chương trình, kinh phí hoạt động, thành lập Ban chỉ đạo mang tính dự thảo thật cụ thể, chi tết để tìm điều kiện cần và đủ đi đến việc tổ chức các hoạt động của CLB đội, nhóm. - Một cá nhân độc lập không có đủ kiến thức và kĩ năng để hoàn thành mục tiêu, vì vậy, cần có một ekíp đó là: Ban chủ nhiệm, Ban điều hành, thành viên nòng cốt ban đầu Làm việc theo ekíp có thể đưa ra quyết định đúng và duy trì tinh thần trong CLB đội, nhóm về sau. Phải có kiến thức và kĩ năng để thực hiện mục tiêu hiện đang có trong nội lực của từng cá nhân cùng ekíp của mình. - Kết quả công việc ekíp phải tác động đến CLB, đội, nhóm cả chiều ngang lẫn chiều sâu và được các đội viên thừa nhận và đánh giá tốt. - Những quyết định của Ban chủ nhiệm, Ban điều hành phải có chất lượng hơn và phải có nhiều hoạt động hơn so với làm việc cá nhân. - Cần có sự đa dạng về trình độ và kinh nghiệm của những người trong ekíp để đưa ra những quyết định tối ưu dẫn đến xác định thời điểm tổ chức các hoạt động của CLB đội, nhóm. Thứ tư, Đoàn, Hội các cấp và ban điều hành, ban cán sự, ban chủ nhiệm các CLB, đội, nhóm cần có chiến lược quảng bá hoạt động của CLB đội, nhóm; đồng thời, SV cần nghiên cứu kĩ càng để đăng kí và tham gia có hiệu quả, bền vững các hoạt động của CLB đội, nhóm. SV vừa là thành viên tham gia vừa chính là nhân tố tích cực để duy trì hoạt động của các CLB, đội, nhóm. Thứ năm, Nhà trường cần quan tâm, chăm lo, chỉ đạo thường xuyên các hoạt động của Đoàn, Hội; tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động CLB đội, nhóm SV hoạt động. Xem đây là một trong những biện pháp tối ưu để tập hợp, quản lí SV, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho mỗi SV, đáp ứng được nhu cầu từ xã hội, nâng cao vị thế và chất lượng nguồn nhân lực do trường đào tạo. 3. Kết luận Mô hình CLB đội, nhóm đã có nhiều đóng góp thiết thực vào sự phát triển của phong trào Đoàn, Hội cũng như góp phần cải thiện và nâng cao kĩ năng mềm cho SV và cần được nhân rộng, phát triển hơn nữa. Với nhiều cách làm hay, đa dạng thông qua các mô hình CLB đội, nhóm SV đã và đang tạo sức lan tỏa lớn, khẳng định sức trẻ và sự cống hiến của SV đối với sự phát triển chung của xã hội và có ý nghĩa lớn trong việc “rèn đức, luyện tài”, “lập thân, lập nghiệp”. Hiệu quả hoạt động từ việc triển khai các mô hình CLB đội, nhóm là một chuỗi các hoạt động nhằm triển khai các chương trình, cuộc vận động của Đoàn, Hội thông qua nhiều công trình, phần việc thanh niên, ý nghĩa thiết thực vào đời sống. Với phương châm mở rộng tập hợp, đoàn kết SV thông qua các mô hình CLB đội, nhóm, Đoàn Thanh niên và Hội SV đã triển khai các cuộc vận động, đẩy mạnh các hoạt động phong trào thể hiện tính xung kích - tình nguyện của tuổi trẻ trong xây dựng tổ chức các mô hình hoạt động theo từng nội dung, phương thức sinh hoạt đa dạng, phong phú, hoạt động phù hợp thiết thực, ý nghĩa để từ đó hoạt động của Đoàn, Hội ngày càng đổi mới nhằm thu hút và tập hợp được nhiều hơn nữa SV tham gia, củng cố vững chắc phong trào thanh niên, SV của nhà trường. (Xem tiếp trang 199) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 195-199 199 thu tri thức của người học sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp trong quá trình dạy và học. Tài liệu tham khảo [1] Little, D. (1991). Learner Autonomy and second/ foreign Language Learning. Dublin: Authentik. [2] Thái Duy Tuyên (2003). Dạy tự học cho sinh viên trong các nhà trường cao đẳng, đại học chuyên nghiệp. Chuyên đề Phương pháp dạy học cho học viên cao học, Đại học Huế. [3] Rindley, G. (1989). Assessing achievement in the learner-centered curriculum. Sydney: National Center for English Language Teaching and Research. [4] Đặng Xuân Hải (2007). Tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của giảng viên và của sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Tạp chí Giáo dục, số 175, tr 5-7. [5] Dominique Rabine-Bucknor (2010). Adult Teaching and Learning: Self Directed Learning, Application Paper, Colorado State University. [6] Henri Holec (1979). Autonomy and Foreign Language Learning, Council for Cultural Cooperation, Strasbourg (France). [7] Lâm Quang Thiệp (2008). Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam. Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Vinh. [8] Leslie Dickinson (1992). Learner Autonomy: Learner Training for Language Learning (Volume 2). Paperback - November. [9] Lưu Xuân Mới (2000). Lí luận dạy học đại học. NXB Giáo dục. [10] Nguyễn Thị Thu Huyền (4/2016). Vai trò của kĩ năng tự học (ngoài lớp học). Cổng thông tin điện tử Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. [11] Phil Banson (2005). Autonomy in language learning, Longman. [12] The glossary of Education Reform (2014). https://www.edglossary.org/teacher-autonomy/. [13] Vygotsky S.L.(2004). Imagination and Creativity in Childhood. Journal of Russian and East European Psychology, Vol. 42, No. 1, January-February, pp. 7-97, M.E. Sharpe, Inc. [14] Chính phủ (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020. [15] Citation: Huitt, W. (1998). Critical thinking: An overview. Educational Psychology Interactive. Valdosta, GA: Valdosta State University. [16] De Bono, E. (1970). Lateral thinking: creativity step by step. Harper & Row, pp. 300. ISBN 0-14- 021978-1. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ (Tiếp theo trang 179) Tài liệu tham khảo [1] Ban Thanh niên trường học (2007). Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. NXB Thanh niên. [2] Nguyễn Thanh Bình (2007). Giáo trình Giáo dục kĩ năng sống (dành cho sinh viên cao đẳng sư phạm). NXB Đại học Sư phạm. [3] Tăng Bình - Thu Huyền - Ái Phương (2012). Ứng xử sư phạm và giáo dục kĩ năng mềm trong nền giáo dục hiện nay. NXB Hồng Đức. [4] Lê Văn Chiến (2006). Kĩ năng sống dành cho bạn trẻ. NXB Trẻ. [5] Chu Văn Đức (2005). Giáo trình kĩ năng giao tiếp. NXB Hà Nội. [6] Hoàng Thị Hiền (2014). Giáo trình kĩ năng mềm - Tiếp cận theo hướng sư phạm tương tác. NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. [7] Huỳnh Văn Sơn (2013). Thử nghiệm một vài biện pháp phát triển kĩ năng mềm cho sinh viên đại học Sư phạm. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 50, tr 68-77. THỰC TRẠNG GIÁO VIÊN MẦM NON (Tiếp theo trang 146) Tài liệu tham khảo [1] Phạm Thị Mai Chi - Bùi Kim Tuyến - Lương Thị Bình - Phan Lan Anh (2005). Hướng dẫn hoạt động cho trẻ 1-3 tuổi. NXB Giáo dục TP. Hồ Chí Minh. [2] Ngọc Thị Thu Hằng (2014). Giới thiệu phương pháp giáo dục Montessori. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 57, tr 125-139. [3] Ngô Hiểu Huy (2013). Phương pháp giáo dục Montessori - Phương pháp giáo dục tối ưu dành cho trẻ 0-6 tuổi. NXB Văn hóa - Thông tin. [4] Lý Lợi (2014). Phương pháp Giáo dục Montessori - Thời kì nhạy cảm của trẻ. NXB Đại học Sư phạm. [5] Maria Montessori (2008). Dạy con trước tuổi lên 3. NXB Lao động. [6] Patricia Giardiello (2014). Pioneers in early childhood education. Routledge, London and New York. [7] Rambusch Nancy Mccormick (1988). Dr. Montessori's own handbook. Schocken books, New York. [8] Aline D. Wolf. (1995). A parents' guide to the Montesssori classroom. Parent child press.
File đính kèm:
- thuc_trang_va_mot_so_kien_nghi_nham_phat_huy_vai_tro_cua_cac.pdf