Thực trạng và một số giải pháp thúc đẩy phát triển nghiên cứu khoa học
Tóm tắt
Để khoa học, công nghệ đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội trong xu thế toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nhà nghiên cứu, nhất là giảng viên tại các trường đại học và
học viện phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên
cứu đó vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong những năm qua, hiệu quả hoạt
động nghiên cứu khoa học các trường đại học ở Việt Nam nói chung và trường Đại học Kiến
trúc Đà Nẵng nói riêng chưa cao cả về chất và lượng. Công trình nghiên cứu khoa học không
mang lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí đề tài nghiệm thu xong chỉ để “xếp ngăn kéo”
diễn ra phổ biến. Chính vì vậy, việc nâng cao cả chất và lượng của hoạt động nghiên cứu
khoa học gắn liền với sứ mạng và mục tiêu đào tạo của nhà trường để những công trình
nghiên cứu thực sự đem lại hiệu quả trong giảng dạy, nâng cao vị thế của trường và ứng
dụng thực tiễn là việc làm rất cần thiết.
Bài viết dưới đây của tác giả với mong muốn cùng nhà trường “giải phẫu” công cuộc
nghiên cứu khoa học và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học. Bài
viết là những kinh nghiệm và suy nghĩ cá nhân; và trên cơ sở tổng hợp những kiến thức từ các
tài liệu về nghiên cứu khoa học nhằm tập trung “mổ xẻ” một số vấn đề như: Vì sao cần làm
nghiên cứu khoa học; thực trạng và những rào cản cản trở sự phát triển nghiên cứu khoa
học; và giải pháp khắc phục.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và một số giải pháp thúc đẩy phát triển nghiên cứu khoa học
KH, người làm nghiên cứu phải đọc và viết rất nhiều. Đọc giúp cho nhà khoa học thu thập thông tin, và giúp mở mang trí não đến những khung trời kiến thức mới. Viết là kỹ năng quan trọng để nhà khoa học có thể truyền tải thông tin đến người đọc. Ngoài đọc và viết, người làm khoa học còn phải biết kỹ năng nói và nghe, giúp nhà khoa học có thể thu thập thông tin KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 09/2019 73 qua phỏng vấn, tương tác với đối tượng nghiên cứu và tương tác với đồng nghiệp trong các hội nghị. Đồng thời nói và nghe cũng là hai phương thức để suy nghĩ có hệ thống và qua đó nhà khoa học có thể sắp xếp thông tin và ý tưởng theo chủ đề. Tất cả những kỹ năng trên là những phương tiện luyện tập thể dục tinh thần rất hiệu quả. 1.4. Nghiên cứu khoa học là một cách để xây dựng sự nghiệp, thăng tiến và hội nhập quốc tế. NCKH là một cách giúp chúng ta đạt được mục tiêu trong đời. Những mục tiêu này có thể là việc làm, có học bổng, được tài trợ cho nghiên cứu, hợp tác trong kinh doanh NCKH thường dẫn đến công bố những bài báo khoa học trên các tập san quốc tế. Những bài báo khoa học này như những viên gạch để xây dựng sự nghiệp của một nhà khoa học. 1.5. Nghiên cứu khoa học là nhằm nâng cao phẩm chất giảng dạy Đối với giảng viên, việc làm mới bài giảng và giáo trình là một nhu cầu rất quan trọng, bởi vì nếu chỉ sử dụng suốt một giáo trình suốt năm này sang năm khác sẽ dễ làm cho sinh viên nhàm chán, và ngay cả người giảng cũng nhàm chán. NCKH giúp cho giảng viên có cơ hội cập nhật hóa kiến thức chuyên ngành. Nhưng ngoài việc cập nhật hóa lượng kiến thức và thông tin, giảng viên còn có thể sáng tạo ra tri thức mới, dữ liệu mới và có thể chia sẻ với sinh viên, từ đó nâng cao vị thế của giảng viên là một người thầy hơn là một người thợ giảng. 2. Thực trạng nghiên cứu khoa học và Rào cản Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên trong các nhà trường đã có những chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng của đất nước, trước sứ mạng đào tạo, mục tiêu phát triển và tầm nhìn của trường Đại học kiến trúc Đà Nẵng thì hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng). Một là, tình trạng đối phó trong nghiên cứu khoa học của giảng viên. Môi trường nghiên cứu khoa học trong trường còn chưa sôi nổi, năng động và có phần còn kém hiệu quả. Thời gian dành cho nghiên cứu khoa học còn rất ít, mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhà trường đã có quy chế phân bổ thời gian nghiên cứu khoa học cho các giảng viên. Theo quy định của Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31- 12-2014 quy định chế độ làm việc đối với giảng viên đã quy định về nghiên cứu khoa học là: Giảng viên phải dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Mỗi năm, giảng viên phải hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được giao tương ứng với chức danh hoặc vị trí công việc đang đảm nhiệm. Nghiên cứu khoa học được xem là nhiệm vụ bắt buộc và là tiêu chí đánh giá lao động của giảng viên. Tuy nhiên, công việc này của giảng viên hiện chưa được chú trọng đúng mức, chưa thật sự phát triển mạnh mẽ, diễn ra không đồng đều và gần như chỉ tập trung vào một số ít giảng viên. Số lượng giảng viên tham gia nghiên cứu không nhiều, chưa thực sự nhiệt tình và say mê nghiên cứu. Bên cạnh đó, do áp lực phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học nên việc nghiên cứu còn mang tính hình thức, dựa trên áp dụng những thứ “có sẵn” nhằm giảm thiểu thời 09/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 74 gian, chi phí thực hiện, dẫn tới chất lượng công trình nghiên cứu chưa thực sự cao. Vì thế, nhiều giảng viên chỉ thực hiện để cho đủ giờ, ít quan tâm đến chất lượng công trình mà mình công bố. Hai là, sự gắn kết giữa nghiên cứu và giảng dạy còn thấp Một số giảng viên theo đuổi hướng nghiên cứu khác xa với môn học do mình đảm nhiệm nên việc thực hiện nghiên cứu nhằm bổ sung cho nội dung giảng dạy sau khi nghiên cứu không đem lại kết quả. Giảng viên vẫn chủ yếu giảng dạy lý thuyết trong giáo trình, quá trình giảng dạy - nghiên cứu tiến hành một cách độc lập, tách rời nhau. Ba là, khối lượng giảng dạy lớn, thời lượng dành cho nghiên cứu còn thấp Thực tế hiện nay ở hầu hết các trường đại học trong nước, trong đó có trường Đại học kiến trúc Đà Nẵng, tỷ lệ sinh viên trên giảng viên hiện vẫn còn cao, có ngành lên trên 35 sinh viên/giảng viên; số giờ giảng trung bình quy định của mỗi giảng viên ở mức rất cao, khoảng 436 giờ chuẩn (chưa kể các hoạt động đoàn thể, xã hội ngoài chuyên môn). Do đó, thời gian để làm nghiên cứu khoa học còn ít so với tổng định mức công việc trên đầu mỗi giảng viên. Mặc dù NCKH được quan niệm là một trong những nhiệm vụ chính của giảng viên, nhưng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của NCKH cần đòi hỏi sự hợp tác và kết nối về chiều sâu thì thực tế điều này chưa được bộc lộ qua các hoạt động và kết quả cụ thể. Bốn là, ứng dụng vào thực tiễn của các công trình nghiên cứu khoa học chưa hiệu quả Mối quan hệ với các doanh nghiệp của Nhà trường chưa thực sự phát triển mạnh mẽ, chưa phát huy tính kết nối trong nghiên cứu giữa các đơn vị trong trường. Các giảng viên khi bắt tay vào làm nghiên cứu khoa học vẫn đang còn tâm lý lo ngại: không biết nghiên cứu của mình rồi có ứng dụng được không? Có được sử dụng không?, chưa kể tới các đơn vị sản xuất, đơn vị đặt hàng ứng dụng cũng không hào hứng lắm với việc ứng dụng cái mới vào doanh nghiệp của họ bởi chi phí đầu tư cho nghiên cứu thường khá lớn lớn, ứng dụng vào đơn vị của họ thì lại không nhiều Năm là, môi trường nghiên cứu khoa học còn thiếu “không khí tự do học thuật” Một trong những trở ngại lớn của hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học nói chung hiện nay là còn thiếu “không khí tự do học thuật”. Tự do học thuật được hiểu chính là giảng viên được trao quyền tự do giảng dạy, tự do nghiên cứu và thảo luận khoa học, tự do công bố kết quả nghiên cứu ở trong nước và quốc tế và tự do phát biểu ý kiến cho các vấn đề thuộc về khoa học và công nghệ, đời sống kinh tế - xã hội trên tinh thần khoa học. Tự do học thuật luôn đi đôi với trách nhiệm học thuật, trong đó quan trọng nhất là sự khách quan và trung thành với chân lý, sự tuân thủ các chuẩn mực về đạo đức và chuyên môn, sự tôn trọng quyền tự do học thuật của những thành viên khác trong cộng đồng học thuật và đối xử công bằng với những quan điểm học thuật khác biệt. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng hạn chế về tự do học thuật và tư duy phản biện trong nghiên cứu khoa học lại diễn ra ở nhiều trường đại học. Điều này là yếu tố chính khiến cho các giảng viên không được KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 09/2019 75 khuyến khích tiếp cận để tìm ra những hướng mới và khiến cho rào cản về cách tiếp cận các vấn đề nghiên cứu khác với truyền thống trở nên khó tháo dỡ. Thêm vào đó, thực hiện tự chủ của các trường đại học mới chỉ ở trong giai đoạn thí điểm, các trường đại học hầu như vẫn đào tạo theo khung chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, trong đó có các môn học bắt buộc chiếm khá nhiều thời gian học của nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên, ảnh hưởng chung đến công tác nghiên cứu khoa học của các trường. Sáu là, định hướng nghiên cứu chưa thực sự khoa học Hiện nay, việc đăng ký đề tài mặc dù được thông qua hội đồng khoa học nhiều lần nhưng chủ yếu phụ thuộc vào người đăng ký, chưa theo hướng nghiên cứu để lựa chọn nơi thực hiện vì thế nhiều khi không xuất phát từ nhu cầu thực của trường, của các ngành học hay của xã hội. Thù lao được trả chưa xứng với công sức bỏ ra: Kinh phí cấp cho các đề tài nghiên cứu thường rất thấp; vì thế, không khuyến khích được giảng viên nghiên cứu... 3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển nghiên cứu khoa học 3.1. Tăng cường nhận thức của giảng viên Trong một thập kỷ qua, có thể nói việc xếp hạng đại học toàn cầu đã đặt ra áp lực rất lớn lên tất cả các trường đại học trên thế giới. Chính phủ nhiều nước coi các trường đại học đẳng cấp quốc tế là biểu tượng cho sự giàu mạnh và niềm tự hào quốc gia. Tất cả các bảng xếp hạng đều đặt nặng vấn đề nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. Tiêu chí NCKH được gắn trọng số cao, khoảng 60%. Do vậy yếu tố quyết định thứ hạng của các đại học là NCKH. Bởi lẽ: - Thứ nhất, nghiên cứu khoa học là để phát triển khoa học, để biết thêm, hiểu sâu hơn. - Thứ hai, việc nghiên cứu có ảnh hưởng tích cực đối với việc giảng dạy và học tập. Nghiên cứu làm tăng chất lượng cho giảng dạy, đưa vào giảng dạy những hiểu biết mới. Với sự tiến triển nhanh của khoa học, một giảng viên không làm nghiên cứu sẽ như một cái băng đĩa, cứ tua đi tua lại những kiến thức cũ có khi đã hết giá trị. Ngoài ra, thông qua nghiên cứu khoa học sẽ còn rèn luyện được những kiến thức và kỹ năng cho sinh viên. - Thứ ba, nghiên cứu phục vụ cho công tác đào tạo sau đại học: bản thân giảng viên phải làm công tác nghiên cứu thì mới có đủ khả năng và phẩm chất khoa học để hướng dẫn các học viên thực hiện các đề tài sau đại học. 3.2. Tác động và nuôi dưỡng các yếu tố tạo nên thành công trong NCKH Nhà trường cần có giải pháp để thúc đẩy động lực nghiên cứu của mỗi giảng viên. Động lực càng mạnh mẽ thì năng lực nghiên cứu càng được phát huy tốt. Động lực nghiên cứu của một giảng viên, tùy thuộc vào mỗi người, có thể là: niềm đam mê, ham nghiên cứu tìm tòi cái mới, khát vọng muốn khẳng định bản thân, muốn hơn người khác, học hàm, học vị, lợi ích kinh tế,... Công thức để dẫn đến thành công trong NCKH là Năng lực nghiên cứu + Động lực nghiên cứu + Môi trường nghiên cứu tốt = Thành công trong NCKH. 09/2019 KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 76 Do đó, cần phải đầu tư vào ba yếu tố này! Một là, tạo động lực cho công tác NCKH: Hiện nay, vấn đề nan giải nhất là: thu nhập của một giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ quá thấp, thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của nhiều ngành nghề khác, khiến họ không sống nổi bằng lương. Thêm vào đó, các giảng viên lại phải giảng dạy rất nhiều để tăng thu nhập, lo cơm áo gạo tiền. Trong hoàn cảnh như thế, giảng viên sẽ không còn thì giờ, tâm trí và sức lực để làm nghiên cứu. - Nhà trường phải cố gắng tăng thu nhập cho các giảng viên với nguyên tắc: thu nhập tăng thêm nhiều hay ít phải tùy thuộc vào kết quả công tác nghiên cứu. Giảng viên làm nghiên cứu có chất lượng, có công bố quốc tế phải có thu nhập tốt hơn so với giảng viên không làm nghiên cứu. Như thế mới công bằng và sự chênh lệch về thu nhập theo cách như vậy sẽ tạo ra động lực NCKH cho giảng viên. - Đưa vào những cơ chế, chính sách tạo động lực cho giảng viên, ví dụ như: những giảng viên thực hiện những đề tài có thành tích nghiên cứu được xem xét đưa vào hệ số để thưởng hoặc lương 2, xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh, xây dựng những nhóm nghiên cứu định hướng ưu tiên và có kinh phí ưu tiên từ nhà trường cho một số lĩnh vực để tạo động lực cho giảng viên. - Trường cần tăng kinh phí cho các đề tài đi đôi với việc đổi mới cơ chế xét duyệt và nghiệm thu, thanh quyết toán đề tài. Việc xét duyệt và cấp kinh phí đề tài cần nghiêm túc, minh bạch và được tiến hành bởi các hội đồng khoa học thực sự đảm bảo về chất lượng chuyên môn cũng như tính khách quan trong đánh giá. Việc nghiệm thu, thanh quyết toán nên theo cơ chế khoán sản phẩm. Sản phẩm đầu ra của một đề tài là quan trọng nhất, là thước đo hiệu quả của việc thực hiện đề tài. Cơ chế khoán sẽ giúp lược bỏ bớt những khâu trung gian, những thủ tục hành chính giúp cho các giảng viên tiết kiệm được thời gian và công sức để tập trung cho công tác nghiên cứu. Hai là, cải thiện môi trường NCKH và xây dựng các nhóm nghiên cứu chủ lực Cải thiện môi trường nghiên cứu khoa học chính là cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phòng thí nghiệm, hệ thống thư viện, tài liệu, internet phục vụ cho công tác nghiên cứu. Một trong những vấn đề đáng quan tâm chính là cơ chế tổ chức NCKH. Chúng ta cần phải xây dựng cơ chế tổ chức làm việc theo nhóm nghiên cứu thay vì như hiện nay vẫn đang là phương thức làm việc đơn độc, mỗi người theo đuổi một vấn đề riêng lẻ. Trong một nhóm nghiên cứu, mỗi thành viên có thể theo đuổi các bài toán khác nhau nhưng cùng hướng tới một mục tiêu, một hướng nghiên cứu chung. Khi đó, các thành viên trong nhóm có cùng mối quan tâm chung, có sự hợp tác, giao tiếp trao đổi, chia sẻ ý tưởng với nhau, học hỏi lẫn nhau. Thế mạnh của từng người sẽ được phát huy tối đa theo sự cộng hưởng lẫn nhau, còn điểm yếu thì lại được bù đắp. Năng suất, chất lượng hiệu quả nghiên cứu của từng thành viên sẽ tăng lên rất nhiều so với làm việc theo mục tiêu của từng cá nhân và sẽ được lũy tiến theo thời gian. Trường cần chủ động lập ra những nhóm nghiên cứu mạnh để định hướng các đề tài nghiên cứu có thể tiếp cận những quỹ khoa học có uy tín và có sự kết nối giữa các KỶ YẾU HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC & GIÁO DỤC TRƯỜNG ĐH KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG 09/2019 77 đề tài nghiên cứu với các tổ chức nghiên cứu, cơ sở sản xuất và gắn với đời sống xã hội. Trường cần mạnh dạn hơn nữa trong việc tổ chức các buổi hội thảo, học hỏi kinh nghiệm của các viện nghiên cứu, các trường đại học trong và ngoài nước đã có nhiều thành tựu về nghiên cứu khoa học để cùng nhau mở rộng biên cương của nghiên cứu khoa học, trên cơ sở đó xây dựng thành nguồn lực nội tại về NCKH cho Nhà trường. Ba là, Gắn kết giữa NCKH và đào tạo sau đại học Gắn kết NCKH với đào tạo sau đại học là một xu thế tất yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động KHCN cũng như đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Nghiên cứu khoa học và đào tạo sau đại học có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nghiên cứu khoa học là một trong những nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo sau đại học và ngược lại. Ngoài ra, những quy định như muốn được xét chức danh tiến sĩ, giáo sư phải hướng dẫn chính thành công các đề tài nghiên cứu khoa học của thạc sĩ hoặc tiến sĩ, đây cũng là động lực khá mạnh cho các giảng viên hướng dẫn. Trên đây là một số giải pháp giúp thúc đẩy phong trào nghiên cứu khoa học của trường Đại học kiến trúc Đà Nẵng. Những giải pháp này có thực hiện được tốt và mang lại kết quả hay không phụ thuộc vào các nhân tố: con người, nguồn tài chính và cơ chế quản trị đại học, trong đó yếu tố con người là nhân tố cốt lõi, quan trọng nhất và có tính quyết định.
File đính kèm:
- thuc_trang_va_mot_so_giai_phap_thuc_day_phat_trien_nghien_cu.pdf