Thực trạng và bài học kinh nghiệm trong sử dụng công cụ phái sinh để phòng tránh rủi ro của các doanh nghiệp ngành công nghiệp khai khoáng tại Việt Nam
Năm 2008, Shamsher và Taufiq (2008) từng đề cập rằng, châu Á có 19 thị trường phái sinh
mặc dù vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Trong khi đó, mãi đến năm 2010, Việt Nam mới có sàn giao
dịch và 7 năm sau, thị trường chứng khoán phái sinh của Việt Nam mới chính thức đi vào hoạt
động. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam luôn phải chịu sức ép từ nhiều loại rủi ro, đặc biệt
là các doanh nghiệp trong ngành Công nghiệp khai khoáng. Dù bắt đầu muộn nhưng thông qua
Nghị định số 158/2020/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 31/12/2020 về chứng khoán phái
sinh và thị trường chứng khoán phái sinh, có thể nói rằng, Việt Nam đang là một thị trường phái
sinh đầy tiềm năng và thu hút sự quan tâm đặc biệt từ Chính phủ, doanh nghiệp và các nhà đầu
tư nước ngoài. Vì vậy, bài nghiên cứu này đưa ra tổng quan lý thuyết về công cụ phái sinh, thực
trạng sử dụng công cụ phái sinh để phòng tránh rủi ro của các doanh nghiệp khai khoáng Việt
Nam giai đoạn 2015 - 2020. Từ bài học kinh nghiệm của các nước Mỹ, Singapore và Malaysia
trong việc sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến
nghị để khuyến khích sự phát triển của thị trường.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và bài học kinh nghiệm trong sử dụng công cụ phái sinh để phòng tránh rủi ro của các doanh nghiệp ngành công nghiệp khai khoáng tại Việt Nam
là Tập đoàn Hershey’s - nhà sản xuất bánh kẹo lớn nhất Hoa Kỳ và là công ty hàng đầu về sản xuất socola trên toàn thế giới. Một trong những khoản chi tiêu lớn nhất của công ty là để mua ca cao sử dụng cho việc chế tạo sản phẩm. Giá cả của ca cao khá biến động và chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khách quan như thời tiết, dịch bệnh, những thay đổi về chính sách, Vì lý do đó, công ty đã bắt đầu mua những hợp đồng tương lai cho mặt hàng ca cao để tránh sự rủi ro từ việc giá cả lên xuống thất thường. Những hợp đồng này có thể đảm bảo cho Hershey’s một cấu trúc vốn hợp lý, tránh ép giá lên người tiêu dùng khi giá ca cao tăng (Hershey’s, 2017). Ngược lại, vụ bê bối của Tập đoàn Enron năm 2001 là một bài học kinh nghiệm về việc sử dụng CCPS của doanh nghiệp. Enron đã tạo ra một thị trường phái sinh năng lượng toàn cầu, các hợp đồng hoán đổi được điều chỉnh theo nhu cầu của khách hàng giúp công ty phòng tránh được rủi ro do biến động giá cả và nguồn cung năng lượng (Henriques, 2002). Tuy nhiên, các giám đốc điều hành của Enron lại cố gắng khai thác lợi nhuận từ những CCPS đó bằng việc sử dụng các hợp đồng phái sinh để cung cấp khí đốt và năng lượng điện tự nhiên vào những thời điểm cụ thể trong tương lai thay vì tập trung sản xuất, khai thác sản phẩm (Tiến Đạt, 2020). Dù vậy, sau ít nhất 4 năm thực hiện gian lận kế toán để che giấu những khoản lỗ và món nợ khổng lồ, Enron đã phải công khai sự thật và nộp đơn xin bảo hộ phá sản vào năm 2001, kéo theo hàng trăm nghìn người lao động và nhà đầu tư phải gánh chịu những hậu quả nặng nề (Đỗ Tiến, 2020). 4.2. Kinh nghiệm sử dụng công cụ phái sinh của các doanh nghiệp tại Singapore Các công ty ở Singapore thường sử dụng CCPS để kiểm soát rủi ro xoay quanh các hoạt động tài chính và kinh doanh. Đối với trường hợp của Singapore, loại hình phái sinh phổ biến nhất là các CCPS ngoại hối để phòng ngừa rủi ro do biến động ngoại hối. Ngoài ra, các công ty trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh cũng sử dụng các loại phái sinh hàng hóa để phòng ngừa rủi ro có thể phát sinh từ việc tăng giá nguyên vật liệu đầu vào (Nguyễn Thị Phương Chi, 2008). Cho tới nay, thị trường chứng khoán phái sinh tại Singapore đã có những bước tiến mạnh mẽ, đi kèm với đó là sự gia tăng trong khối lượng giao dịch. Chỉ trong năm 2020, tổng khối lượng giao dịch hợp đồng phái sinh của Singapore đã tăng 6% (Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore, 2020). Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore (SGX) cũng nhận được nhiều lợi ích từ sự gia tăng về số lượng giao dịch chứng khoán phái sinh, một phần không thể thiếu của sàn giao dịch, chiếm đến gần 40% tổng thu nhập. Vào năm 2015, Cơ quan niêm yết chứng khoán Singapore đã nâng cấp toàn bộ các nền tảng thanh toán và giao dịch chứng khoán phái sinh, đồng thời tìm cách tăng cường việc kiểm soát và bảo vệ hệ thống giao dịch. Để ứng biến với hoạt động mua bán các CCPS ngày càng trở nên sôi động của doanh nghiệp, Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore đã tăng phí gấp 10 lần đối với các thành viên giao dịch chứng khoán phái sinh (Gupta, 2017). 4.3. Kinh nghiệm sử dụng công cụ phái sinh của các doanh nghiệp tại Malaysia Tại Malaysia, các CCPS được kiểm soát bởi Bộ Tài chính, quy định bởi Ủy ban Chứng khoán và được vận hành bởi Bursa Malaysia Derivative Berhad (BMDB). Vào tháng 10/1980, việc ra mắt hợp đồng dầu cọ thô đang được giao dịch tại Sở Giao dịch hàng hóa Kuala Lumpur (KLCE) đã đánh dấu sự tham gia của Malaysia vào cộng đồng giao dịch phái sinh. Ngày nay, BMDB là một phương tiện cho nhiều loại CCPS được cung cấp ở Malaysia, chẳng hạn như hợp đồng tương lai dầu cọ thô, hợp đồng tương lai cổ phiếu, lãi suất, trái phiếu và hợp đồng quyền chọn (Pyeman và cộng sự, 2018). KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 636 Một dấu ấn nổi bật của thị trường chứng khoán phái sinh Malaysia trong năm 2020 đó là việc các CCPS trên sàn Bursa Malaysia liên tiếp phá vỡ kỷ lục khi tổng khối lượng giao dịch cho hợp đồng tương lai mặt hàng dầu cọ thô ghi nhận khối lượng giao dịch cao nhất trong lịch sử là 12 triệu lô, vượt qua kỷ lục trước đó là 11.91 triệu lô đạt được trong năm 2017. Tính theo năm, con số này đã tăng 41% từ 8.49 triệu lô được ghi nhận từ năm 2019. Sự gia tăng về khối lượng chủ yếu là do việc sử dụng hợp đồng phái sinh dầu cọ thô như một công cụ phòng ngừa rủi ro để chống lại sự biến động giá cả do đại dịch COVID-19 gây ra (Raj, 2020). 5. KẾT LUẬN Tổng kết kinh nghiệm từ các quốc gia Mỹ, Singapore và Malaysia, nhóm tác giả đề xuất một số bài học có thể áp dụng cho Việt Nam như sau. 5.1. Đối với Nhà nước Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường phái sinh. - Hệ thống pháp lý cần xây dựng phù hợp trên thông lệ quốc tế và bối cảnh hiện hành của thị trường Việt Nam. Hệ thống khung pháp lý là một cơ sở quan trọng và cần được hoàn thành sớm do nhiều biến động ngoại cảnh bất ngờ như đại dịch COVID-19. - Cơ quan quản lý sản phẩm phái sinh cần được thống nhất. Đến năm 2017, thị trường phái sinh đang được quản lý lần lượt bởi Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Trong khi đó, một bài học được đúc kết từ kinh nghiệm của Singapore và nhiều nước mới nổi là cần loại bỏ sự chồng chéo giữa các cơ quan quản lý và làm rõ thẩm quyền của mỗi bên (Shamsher và Taufiq, 2008). - Việc điều hành và giám sát hoạt động của thị trường cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nhà nước có thể kết hợp với các ban ngành, đẩy mạnh phối hợp giữa các đơn vị của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và hai Sở Giao dịch Chứng khoán hoặc với Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam - VACPA1 để giám sát, đánh giá và phát hiện các hành vi vi phạm kịp thời. Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện chế độ kế toán với các quy định cụ thể về phái sinh. - Chế độ kế toán cần tiện lợi hơn cho người sử dụng. Trong quá trình thu thập dữ liệu từ báo cáo truyền thống, nhóm nghiên cứu nhận thấy hiện nay các ghi chép của doanh nghiệp về CCPS chủ yếu được diễn giải trong thuyết minh báo cáo tài chính, ở các tài khoản khác nhau (công cụ tài sản cơ sở, đầu tư tài chính, ngoại tệ,) thay vì có sự thống nhất và ở trong bảng cân đối kế toán. - Chế độ kế toán cũng cần bắt kịp với Chuẩn mực quốc tế. Với lộ trình áp dụng tự nguyện IFRS tại Việt Nam từ năm 2022, Bộ Tài chính cũng cần hoàn thiện chế độ kế toán các giao dịch phái sinh phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy sản phẩm trong phòng ngừa rủi ro, đồng thời thuận tiện cho các ngân hàng thương mại theo dõi quản lý nghiệp vụ phái sinh trong quá trình sử dụng. Thứ ba, Nhà nước cần tập trung phát triển vào thị trường tài chính tiền tệ. - Giao dịch phái sinh không thể tách rời giao dịch công cụ tài chính cơ sở. Đa dạng sản phẩm tài chính cơ sở và cải thiện chất lượng nguồn cung là một điều cần thiết. Bên cạnh đó, việc nghiên 1 Vietnam Association of Certified Public Accountants KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 637 cứu và triển khai số hóa thị trường chứng khoán cũng vô cùng quan trọng để tiếp cận và đem lại trải nghiệm hiệu quả cho mọi người dùng. - Hệ thống và năng lực của các tổ chức trung gian tài chính cần được phát triển. Trong xu hướng của tự động hóa và trao đổi dữ liệu, Nhà nước có thể cân nhắc tích hợp trí tuệ nhân tạo trong quá trình quản lý hay tư vấn vào trong hướng dẫn hoạt động của tổ chức kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng cần được tham gia vào quá trình trang bị kiến thức về phái sinh để tránh lo ngại về rủi ro. - Các giải pháp nâng hạng thị trường chứng khoán cần được triển khai. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ đang ở hạng thị trường cận biên (frontier market) nên các giải pháp cần hướng đến một thị trường mới nổi (emerging market) trên bảng xếp hạng của MSCI và FTSE. 5.2. Đối với doanh nghiệp khai khoáng Thứ nhất, doanh nghiệp cần tối ưu hóa mô hình tổ chức hoạt động. Trên thế giới, các doanh nghiệp khai khoáng phần lớn hoạt động theo mô hình liên kết công ty mẹ và các công ty con với chuyên môn hóa trong từng khâu chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp ngành khai khoáng Việt Nam cũng có nhiều sự tương đồng. Tuy nhiên, các đơn vị được chia theo sản phẩm nhiều hơn là chức năng, dẫn đến sự phân tán nguồn lực không hiệu quả do các hoạt động bị chồng chéo. Thứ hai, các doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức và liên tục cập nhật về CCPS. Công tác đào tạo và tái đào tạo cần được doanh nghiệp tiến hành thường xuyên trong cả lý thuyết và thực hành. Công ty có thể thuê một bên thứ ba quản lý về đào tạo cho nhân viên nếu chưa vững. Với một thị trường phái sinh được kỳ vọng như hiện nay, doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng bằng việc hướng dẫn các bộ phận liên quan nghiên cứu về nghiệp vụ dự báo biến động, dự phòng và so sánh các cách sử dụng CCPS sao cho hiệu quả để giảm thiểu rủi ro và chi phí cho doanh nghiệp. Thứ ba, doanh nghiệp cần hiện đại hóa công nghệ. Theo Nghị quyết số 02/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24/5/2011 về định hướng chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, các doanh nghiệp cần thích ứng nhanh với thị trường bằng việc trang bị hệ thống công nghệ hiện đại, nâng cao thương hiệu với các đối tác hay khách hàng tiềm năng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hải An (2020), Tiềm năng thị trường phái sinh Việt Nam, truy cập ngày 14/3/2021 tại <https:// bit.ly/38BqmlV> 2. Minh Anh (2015), Công nghiệp khai khoáng vẫn đóng góp lớn cho GDP, Báo Tài nguyên Môi trường, truy cập ngày 14/3/2021 tại 3. Võ Thị Thúy Anh (2009), Quản lý rủi ro hối đoán giao dịch trong kinh doanh quốc tế. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng 2(31), truy cập từ: 4. BBT (2020), Tiềm năng ngành Khoáng sản ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Môi trường, truy cập ngày 14/3/2021 tại 5. Bessembinder, H. (1991), Forward Contracts and Firm Value: Investment Incentive and Contracting Effects. The Journal of Financial and Quantitative Analysis 26(4), 519 - 532. doi:10.2307/2331409 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 638 6. Bộ Chính trị (2011), Nghị quyết số 02/NQ/TW về định hướng chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ban hành ngày 25/4/2011. 7. Chernenko, S. & Faulkender, M. (2011), The Two Sides of Derivatives Usage: Hedging and Speculating with Interest Rate Swaps. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 1727 - 1754. 8. Nguyễn Thị Phương Chi (2008), Phát triển công cụ Option trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 9. Chính phủ (2020), Nghị định số 158/2020/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh, ban hành ngày 31/12/2020. 10. Tiến Đạt, (2020), Doanh nghiệp đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam bị buộc phá sản: Bài học cũ từ cú sụp đổ kinh điển của Enron, Diễn đàn năng lượng, truy cập ngày 14/3/2021 tại 11. Gençay, R. & Min Qi. (2001), Pricing and Hedging Derivative Securities with Neural Networks: Bayesian Regularization, Early Stopping, and Bagging. Ieee Transactions on Neural Networks, 12, (4). 12. Gupta, S. (2017), Financial Derivatives (Theory, Concepts, and Problems) Second Edition. 13. Ngọc Hà (2019), Khai thác khoáng sản vẫn còn khoảng cách giữa chủ trương và thực tiễn, Nhà báo & Công luận, truy cập ngày 14/3/2021 tại 14. Heckinger, R. (2013), Understanding Derivatives: Markets and Infrastructure, Chapter 1: Derivatives Overview, Ngân hàng dự trữ Liên bang Chicago, truy cập ngày 14/3/2021 tại 15. Henriques, D. B. (2001), Enron’s Collapse: The Derivatives; Market That Deals in Risks Faces a Novel One. The New York Times, truy cập ngày 14/3/2021 tại 16. Hershey’s (2017), Báo cáo thường niên công ty, truy cập ngày 14/3/2021 tại <https://bit. ly/3eGBty1> 17. Hodgkins, D. J. (2014), Usage of Derivatives in Business Today. Honors Scholar Theses, 361, University of Connecticut, truy cập từ: Honors Scholar Theses. 18. Hull, J. C. (2012), Options, Futures and Other Derivatives. 8th Edition. Prentice Hall. ISBN- 13: 9780132164948. 19. Moosa, I. A. (2000), Arbitrage, hedging, speculation and the pricing of crude oil futures contracts. Keio economic studies, 37(1), 53 - 61. 20. Nanumyan V, Garas A, Schweitzer F. (2015), The Network of Counterparty Risk: Analysing Correlations in OTC Derivatives, Plos One, truy cập tại: 21. Pyeman, J., Zakaria, S., & Idris, N. A. M. (2019), An Empirical Analysis on the Application of Financial Derivatives as a Hedging Strategy among Malaysian Firms. Contemporary Economics, 13(3), 305 - 316. 22. Ngọc Quỳnh (2018) Thị trường chứng khoán phái sinh tăng trưởng tốt và ổn định, Tạp chí Công Thương, truy cập ngày 14/3/2021 tại KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 639 23. Quốc hội (2010), Luật số 47/2010/QH12 - Các tổ chức tín dụng, ban hành ngày 16/62010. 24. Raj, A. P. (2020), Bursa appears headed for record earnings on market’s trading surge. The Edge Malaysia, truy cập ngày 14/3/2021 tại 25. Rubinstein, M. (1999), Rubinstein on derivatives. Risk Books. ISBN 1-899332-53-7. 26. Shamsher, M., & Taufiq, H. (2008), Asian derivative markets: Research issues. International Journal of Banking and Finance, 5(1), 1 - 25. 27. Sill, K. (1997). The Economic Benefits and Risks of Derivative Securities. Business Review. Federal Reserve Bank of Philadelphia. Philadelphia. 28. Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore (2020), Báo cáo thống kê thị trường, truy cập ngày 14/3/2021 tại . 29. Stosic-Mihajlovic, L., & Zdravkovic, I. (2016), Forward, future and options on stock exchange market. Journal of Process Management New Technologies, 4(3), 50 - 56, University of Connecticut. 30. Phuong Tam (2014), Controlling exploitation and use of mineral resources, Vietnam Economic News, truy cập ngày 14/3/2021 tại 31. Đỗ Tiến (2020), Vụ bê bối tài chính Enron: Trạng chết, chúa cũng băng hà, Cảnh sát toàn cầu, truy cập ngày 14/3/2021 tại 32. Duy Thái (2021), Thanh khoản thị trường phái sinh tăng gần 80% trong năm 2020, Thời báo Tài chính, truy cập ngày 14/3/2021 tại 33. Huyền Thu (2020), Thị trường chứng khoán Việt Nam: 20 năm phát triển vượt bậc cả về quy mô và chất lượng, Tạp chí Tài chính, truy cập ngày 14/3/2021 tại 34. Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2020), Diện tích tự nhiên được đo vẽ lập bản đồ địa chất khoáng sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường. 35. Tổng cục Thống kê (2020), Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2020, truy cập ngày 14/3/2021 tại 36. Ngọc Trâm (2018), Khối lượng giao dịch phái sinh năm 2018 tăng gấp 7 lần so với năm 2017, Nhà Đầu tư, truy cập ngày 14/3/2021 tại 37. Lê Thị Thuỳ Vân (2017), Thị trường tài chính tiền tệ 2015 và triển vọng 2016, Tạp chí Ngân hàng, truy cập ngày 14/3/2021 tại https://bit.ly/30GC7U3 38. WFE (2019), Báo cáo về công cụ phái sinh, truy cập ngày 14/3/2021 tại <https://bit. ly/3rRoJIs>.
File đính kèm:
- thuc_trang_va_bai_hoc_kinh_nghiem_trong_su_dung_cong_cu_phai.pdf