Thực trạng ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL của giáo viên vào hoạt động giáo dục ở bậc Trung học Cơ sở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Kết quả nghiên cứu thực trạng ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã
hội SEL (Social and Emotional Learning) vào hoạt động giáo dục ở bậc Trung học
cơ sở cho thấy chỉ đạt mức trung bình, ảnh hưởng đáng kể đến thực trạng năng lực
SEL của học sinh Trung học cơ sở. Vì vậy, đội ngũ giáo viên Trung học cơ sở cần
được tạo điều kiện để tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu và ứng dụng mô hình giáo dục
năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở trường Trung học cơ sở.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL của giáo viên vào hoạt động giáo dục ở bậc Trung học Cơ sở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL của giáo viên vào hoạt động giáo dục ở bậc Trung học Cơ sở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
ực SEL cũng như cơ hội để triển khai giáo dục SEL ở Việt Nam chưa được phổ biến hay nói khác chưa được tiến hành một cách tập trung, TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 4 đúng định hướng. Đây có thể là điểm cần suy ngẫm nhưng chưa thể kết luận là nguyên nhân này là do chính bản thân chủ thể chủ động: giáo viên. Bảng 2: Nhận thức của giáo viên THCS về mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL TT NĂNG LỰC SEL MỨC ĐỘ ĐTB Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Mức 5 SL % SL % SL % SL % SL % 1 Người có năng lực SEL nghĩa là không chỉ có kỹ năng nhận thức, quản lý bản thân mà còn nhận thức và quản lý mối quan hệ với người khác 4 2,86 6 4,29 76 54,29 20 14,29 34 24,27 3,51 2 Việc ứng dụng mô hình SEL sẽ cần rất nhiều thời gian 7 5,00 10 7,14 75 53,57 19 13,57 29 20,71 3,33 3 Những năng lực cảm xúc - xã hội sẽ giúp học sinh đối mặt với những thách thức trong tương lai 5 3,57 12 8,57 80 57,14 22 15,71 21 15,00 3,32 4 Mô hình SEL bao gồm 5 nhóm năng lực chính: tự nhận thức bản thân, nhận thức người khác, làm chủ mối quan hệ, làm chủ các mối quan hệ và ra quyết định có trách nhiệm 4 2,86 17 12,14 68 48,57 35 25,00 20 14,29 3,41 5 Giáo dục năng lực cảm xúc - xã hội chính là giáo dục các kỹ năng để người học có thể kiểm soát bản thân, hành xử tích cực với người khác và đưa ra những quyết định có trách nhiệm 3 2,14 9 6,43 65 46,43 38 27,14 25 17,86 3,5 Tác giả Elias (2009) cho rằng để trở thành một giáo viên có năng lực SEL có nghĩa là họ không chỉ có kỹ năng mà còn nhận thức và quản lý bản thân; TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 5 nhận thức và quản lý mối quan hệ với người khác. Tác giả tin rằng nếu giáo viên cảm thấy tự tin với các kỹ năng liên quan đến cảm xúc sẽ nhận ra và hiểu được tốt hơn cảm xúc của học sinh và vai trò của họ đối với hành vi của học sinh (Elias, 2009) [12]. Hơn nữa, giáo viên này có thể có hiểu được một cách tích cực hơn đối với sự cần thiết, niềm tin và sự tôn trọng của học sinh (Jennings & Greenberg, 2009) [6]. Số liệu tìm được ở bảng 2 cho thấy, nhận thức “Người có năng lực SEL nghĩa là không chỉ có kỹ năng nhận thức, quản lý bản thân mà còn nhận thức và quản lý mối quan hệ với người khác” đứng vị trí thứ 1 với ĐTB=3,51. Đứng vị trí thứ 2 “Giáo dục năng lực cảm xúc - xã hội chính là giáo dục các kỹ năng để người học có thể kiểm soát bản thân, hành xử tích cực với người khác và đưa ra những quyết định có trách nhiệm” với ĐTB=3,5. Đứng vị trí thứ 3 “Mô hình SEL bao gồm 5 nhóm năng lực chính: tự nhận thức bản thân, nhận thức người khác, làm chủ mối quan hệ, làm chủ các mối quan hệ và ra quyết định có trách nhiệm” với ĐTB tìm được là 3,41. Đứng vị trí thứ 4 “Việc ứng dụng mô hình SEL sẽ cần rất nhiều thời gian” với ĐTB là 3,33. Đứng vị trí cuối cùng “Những năng lực cảm xúc - xã hội sẽ giúp học sinh đối mặt với những thách thức trong tương lai” với ĐTB là 3,32. Kết quả trên cho thấy giáo viên nhận thức về SEL ở mức độ trung bình. Đây là một tín hiệu cần quan tâm để tăng cường những khóa tập huấn chuyên môn về SEL để cung cấp cho đội ngũ giáo viên nền tảng kiến thức khoa học và cách ứng dụng SEL vào hoạt động giáo dục một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên, việc ứng dụng SEL chắc chắn gặp những khó khăn nhất định. Kết quả khảo sát này rất quan trọng để từ đó xác lập các cơ sở đề xuất cho công tác bồi dưỡng, đào tạo tích hợp... về SEL cho đội ngũ. Bảng 3: Những khó khăn ảnh hưởng đến thực trạng việc ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở trường THCS TT KHÓ KHĂN Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Thời gian không có 108 77,14 2 Áp lực thành tích học văn hóa 66 47,14 3 Hiểu biết và kỹ năng của bản thân không đủ 82 58,57 4 Chương trình học không có thể co giãn 56 40,00 5 Quan điểm của Ban Giám hiệu về nội dung chương trình rất cứng 89 63,57 6 Khó lựa chọn hoạt động giáo dục cụ thể 75 53,57 7 Điều kiện cơ sở vật chất hạn chế 69 49,29 Kết quả bảng 3 cho thấy trong các khó khăn nêu ra, lý do “Thời gian không có” xếp thứ nhất với sự tán thành từ 77,14% giáo viên THCS là rào cản lớn nhất với tỷ lệ giáo viên chọn mức từ cao trở lên, so với nghiên cứu của Buchanan và cộng sự (2009) [10] chiếm tỷ lệ 52,3% cho thấy sự khác biệt rất lớn về thời lượng học tập giữa Việt Nam và Hoa kỳ. Có tới 63,57% hiệu trưởng từ trường mầm non đến trường trung học phổ thông của Hoa Kỳ muốn đưa “chính sách” ứng dụng SEL vào trong trường học là một tiêu chuẩn của tiểu TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 6 bang cũng như ở đề tài này là những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tiếp theo, về rào cản ảnh hưởng đến việc ứng dụng năng lực SEL vào hoạt động giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh THCS mà giáo viên đánh giá đó là “Quan điểm của Ban Giám hiệu về nội dung chương trình rất cứng” với tỷ lệ 64,57% giáo viên chọn mức cao trở lên. Điều này cho thấy cần phải có sự đổi mới về quan điểm của Ban Giám hiệu để có thể ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở trường THCS một cách hiệu quả. Kế tiếp, có đến 58,57% giáo viên cho rằng “Hiểu biết và kỹ năng của bản thân không đủ” đứng vị trí thứ 3, điều này khá chênh lệch cho với nghiên cứu trước đó của Buchanan và cộng sự (2009) khi chỉ 29,9% giáo viên thừa nhận có năng lực và từng ứng dụng SEL vào trong hoạt động giảng dạy của họ. Dù đây là số liệu nghiên cứu khác ở một quốc gia khác, thực trạng nghề nghiệp và giáo dục khác nhưng cho thấy sự hiểu biết của giáo viên có sự chênh lệch một cách đáng kể. Đứng vị trí thứ 4 và thứ 5 lần lượt là “Khó lựa chọn hoạt động giáo dục cụ thể” và “Điều kiện cơ sở vật chất hạn chế” với tỷ lệ tìm được là 53,57 và 49,29. Có thể xem xét về thực trạng ứng dụng SEL vào hoạt động giáo dục học sinh THCS qua hoạt động cụ thể mà giáo viên đã thực hiện. Kết quả khảo sát thể hiện ở bảng 4. Bảng 4: Thứ tự hoạt động giáo dục ở trường THCS có thể ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL TT HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỨ HẠNG Hạng 1 Hạng 2 Hạng 3 Hạng 4 Hạng 5 SL % SL % SL % SL % SL % 1 Giáo dục tích hợp 89 63,57 17 12,14 12 8,57 9 6,43 13 9,29 2 Giáo dục thông qua hoạt động chủ nhiệm 77 55,00 20 14,29 19 13,57 12 8,57 12 8,57 3 Giáo dục kỹ năng sống 83 59,29 18 12,86 21 15,00 9 6,43 9 6,43 4 Giáo dục thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp 60 42,86 28 20,00 19 13,57 23 16,43 70 50,00 Dựa trên số liệu ở bảng 4, hoạt động “Giáo dục tích hợp” được xếp hạng 1 với 63,57% tán thành. Giáo dục tích hợp là một trong những định hướng giáo dục được khuyến khích áp dụng hiện nay ở nhà trường THCS nên sự lựa chọn này của giáo viên THCS cũng là điều dễ lý giải. Kế tiếp, đứng vị trí thứ 2 đó là hoạt động “Giáo dục kỹ năng sống” cho thấy khá rõ tiềm lực của hoạt động này để có thể giáo dục SEL cho học sinh THCS. Lẽ nhiên, cần có cái nhìn khách quan đó là hiện nay giáo dục tích hợp vẫn bao hàm giáo dục kỹ năng sống trong thực tiễn. Tuy nhiên, từ năm 2017, khi bộ sách Thực hành kỹ năng sống của Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiệm thu thì vấn đề giáo dục kỹ năng sống trở nên cụ thể hơn và bài bản hơn minh chứng cho triển vọng áp dụng TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 7 phát triển SEL. Số liệu cũng cho thấy “Giáo dục thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp” hoạt động “Giáo dục thông qua hoạt động chủ nhiệm” cũng cho thấy triển vọng của việc ứng dụng SEL vào thực tế. Đây là dữ liệu quan trọng để có thể tiếp tục nghiên cứu nhằm triển khai ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL trong thực tiễn để phát triển học sinh nói chung và năng lực cảm cúc xã hội SEL nói riêng. Kết quả ứng dụng SEL vào hoạt động giáo dục học sinh THCS thể hiện ở bảng 5. Bảng 5: Các biện pháp ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở THCS TT BIỆN PHÁP MỨC ĐỘ ĐTB Mức 1 Mức 2 Mức 3 Mức 4 Mức 5 SL % SL % SL % SL % SL % 1 Giáo dục năng lực SEL cho học sinh qua việc lồng ghép trong các môn học ở trường THCS 7 5,00 9 6,43 73 52,14 29 20,71 22 15,72 3,31 2 Thiết kế hệ thống giáo dục các theo mô hình hệ thống giá trị SEL 4 2,86 12 8,57 87 62,14 21 15,00 16 11,43 3,21 3 Thiết kế từng chương trình giáo dục chuyên biệt. Mỗi chương trình phản ánh đầy đủ giá trị của mô hình SEL 8 5,71 20 14,29 71 50,71 28 20,00 13 9,29 3,07 4 Tích hợp SEL vào trong các hoạt động giáo dục cụ thể ở trường THCS 5 3,57 18 12,86 75 53,57 24 17,14 18 12,86 3,19 Kết quả bảng 5 cho thấy, biện pháp ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở THCS được chọn nhiều nhất là “Giáo dục năng lực SEL cho học sinh qua việc lồng ghép trong các môn học ở trường THCS” với ĐTB=3,31. Kết quả này cho thấy tầm quan trọng của việc giảng dạy tích hợp, liên môn tại các trường THCS hiện nay. Đứng vị trí thứ 2 là “Thiết kế hệ thống giáo dục các theo mô hình hệ thống giá trị SEL” với ĐTB=3,21. Đứng vị trí thứ 3 là “Tích hợp SEL vào trong các hoạt động giáo dục cụ thể ở trường THCS” với ĐTB=3,19. Đứng vị trí cuối cùng là “Thiết kế từng chương trình giáo dục chuyên biệt. Mỗi chương trình phản ánh đầy đủ giá trị của mô hình SEL” với ĐTB=3,07. Trong khi đó, Buchanan và cộng sự (2009) chỉ ra rằng phần lớn người trả lời là giáo viên chiếm tỷ lệ TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 8 67,4% đã báo cáo rằng một chương trình giáo dục năng lực SEL được thực hiện trong lớp học với hơn một nửa chiếm tỷ lệ 54,5% báo cáo rằng họ đã thực hiện chương trình giáo dục năng lực SEL, trong khi một tỷ lệ nhỏ báo cáo rằng một cá nhân khác đã thực hiện chương trình giáo dục năng lực SEL trong lớp học của họ chiếm tỷ lệ 12,9%. Đây là những dữ liệu có thể nhìn nhận, so sánh để tiếp tục điều chỉnh trong thực tế biện pháp ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở THCS. Về quy trình ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc - xã hội SEL vào hoạt động giáo dục học sinh THCS, có đến 125 giáo viên ứng với 89,28% tán thành với quy trình sau: - Phân tích các năng lực cụ thể trong SEL - Tiếp cận chương trình giáo dục - Xác định phương thức, nội dung tích hợp - Cụ thể hóa yêu cầu ứng dụng trong chương trình giáo dục; - Cụ thể hóa yêu cầu ứng dụng trong chương trình giáo dục - Phân tích các năng lực cụ thể trong SEL - Tiếp cận chương trình giáo dục - Xác định phương thức, nội dung tích hợp; - Tiếp cận chương trình giáo dục - Xác định phương thức, nội dung tích hợp - Cụ thể hóa yêu cầu ứng dụng trong chương trình giáo dục - Phân tích các năng lực cụ thể trong SEL; - Tiếp cận chương trình giáo dục - Xác định phương thức, nội dung tích hợp - Phân tích các năng lực cụ thể trong SEL - Cụ thể hóa yêu cầu ứng dụng trong chương trình giáo dục. 3. Kết luận Kết quả khảo sát cho thấy giáo viên THCS chưa quan tâm đến SEL và vấn đề ứng dụng SEL để giáo dục học sinh THCS nói chung và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS nói riêng. Từ đó, thực trạng ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở THCS chỉ ở mức trung bình. Điều này cho thấy đội ngũ giáo viên THCS cần được tạo điều kiện để tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu và ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL vào hoạt động giáo dục ở trường. Bên cạnh đó, cần có những chính sách hỗ trợ về thời gian, chương trình để giáo viên có thể thực hiện việc ứng dụng mô hình giáo dục năng lực cảm xúc xã hội SEL cho học sinh THCS trong các hoạt động giáo dục cụ thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Rahul Rathore (2018), https://www.quora.com/How-important-is-education-2, (1/1/2019) 2. Spilt, J. L., Koomen, H. M., & Thijs, J. T. (2011), Teacher wellbeing: The importance of teacher–student relationships. Educational Psychology Review, 23(4), 457-477 3. Trung Phương, “Tội phạm vị thành niên những con số đáng lo ngại”, 42931.html, (2/1/2019) 4. Goleman, D. (1995), Emotional Intelligence, New York: Bantam Dell, P.51 TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 12 - 2019 ISSN 2354-1482 9 5. Jennings, P. A. (2011), Promoting teachers’ social and emotional competencies to support performance and reduce burnout. Breaking the mold of pre- service and inservice teacher education: Innovative and successful practices for the 21st century, Page: 133-143 6. Jennings, P. A., & Greenberg, M. T. (2009), The prosocial classroom: Teacher social and emotional competence in relation to student and classroom outcomes, Review of educational research, 79(1), 491-525 7. Baker, J. A., Grant, S., & Morlock, L. (2008), The teacher-student relationship as a developmental context for children with internalizing or externalizing behavior problems, School psychology quarterly, 23(1), 3 8. Bernstein‐Yamashiro, B., & Noam, G. G. (2013), Teacher‐student relationships: A growing field of study, New Directions for Student Leadership, 2013(137), 15-26 9. Murray, C., & Zvoch, K. (2011), Teacher-student relationships among behaviorally at-risk African American youth from low-income backgrounds: student perceptions, teacher perceptions, and socioemotional adjustment correlates, Journal of Emotional and Behavioral Disorders, 19(1), 41-54 10. Buchanan, R., Gueldner, B. A., Tran, O. K., & Merrell, K. W. (2009), Social and emotional learning in classrooms: A survey of teachers’ knowledge, perceptions, and practices, Journal of Applied School Psychology, 25(2), 187-203 11. Hoàng Mai Khanh, Vũ Quang Tuyên (2016), Teaching Social and Emotional Skills to Students in Vietnam: Challenges and Opportunities, AsTEN Journal of Teacher Education, 1(1), 1-8 12. Elias, M. J. (2009), Social-emotional and character development and academics as a dual focus of educational policy, Educational Policy, 23(6), 831-846 THE SITUATION OF APPLYING THE SOCIAL-EMOTIONAL LEARNING MODEL (SEL) OF THE TEACHERS TO EDUCATIONAL ACTIVITIES IN SECONDARY SCHOOL IN HO CHI MINH CITY ABSTRACT The study results of the situation of applying the social-emotional learning model (SEL) to educational activities in secondary schools showed that it was only average, significantly affecting the situation of SEL capacity of secondary school students. Therefore, secondary teachers should be facilitated to access, study, learn and apply the SEL model to educational activities in secondary schools. Keywords: Situation, SEL model application, educational activities, secondary school (Received: 18/2/2018, Revised: 1/3/2019, Accepted for publication: 19/3/2019)
File đính kèm:
- thuc_trang_ung_dung_mo_hinh_giao_duc_nang_luc_cam_xuc_xa_hoi.pdf