Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay
1. Mở đầu
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở,
nơi thực hiện trực tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc quan
tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn
(gọi tắt là cán bộ cấp xã) nói chung, cán bộ chủ chốt cấp
xã (CCCX) nói riêng có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm
vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước
mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Để đội ngũ cán bộ CCCX có đủ trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ hoàn thành tốt công việc tại địa phương
thì cần không ngừng bồi dưỡng thường xuyên. Để hoạt
động bồi dưỡng mang lại hiệu quả cao thì việc quản lí
(QL) hoạt động đó giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.
Hoạt động bồi dưỡng cán bộ CCCX có thể diễn ra ở các
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, trường Chính
trị tỉnh, trường đại học trong phạm vi bài viết này gọi
chung là các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng (ĐT, BD).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay
ĐT, BD 371 2,47 2 673 2,40 5 1,044 2,43 3 2 Môi trường sư phạm của cơ sở ĐT,BD 359 2,39 4 682 2,44 2 1,041 2,42 4 3 Điều kiện cơ sở vật chất 348 2,32 5 680 2,43 3 1,028 2,39 5 4 Trình độ, phẩm chất, năng lực của CBQL 367 2,45 3 681 2,43 3 1,048 2,44 2 5 Trình độ, nhận thức, năng lực của lực lượng tham gia BD (người dạy) 375 2,50 1 694 2,48 1 1,069 2,49 1 6 Đối tượng được bồi dưỡng (học viên) 367 2,45 3 681 2,43 3 1,048 2,44 2 Tổng trung bình chung 2,38 2,41 2,40 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 109-114 112 bình, điểm trung bình chung là X 2,40 . Mức độ ảnh hưởng của các nội dung trên không đồng đều nhau và xếp theo thứ bậc như sau: Nội dung “Trình độ, nhận thức, năng lực của lực lượng tham gia bồi dưỡng (người dạy)” được đánh giá ảnh hưởng nhất, với điểm trung bình X 2,49 xếp bậc 1/6, xếp thứ bậc thứ 2 với X=2,44 là nội dung “Trình độ, phẩm chất, năng lực của CBQL” và nội dung “Đối tượng được bồi dưỡng (học viên)”, điều này cũng phù hợp, bởi quyết định tới sự thành công hay thất bại của bất kì hoạt động nào đều do nhân tố con người, khi mọi điều kiện đều đảm bảo, nhưng con người không nỗ lực, cố gắng, quyết tâm thực hiện thì kết quả cũng không thể tốt được, còn khi con người quyết tâm thực hiện nhiệm vụ với mong muốn công việc đạt hiệu quả cao nhất thì sẽ chủ động, sáng tạo, kết hợp giữa các bộ phận liên quan cùng nhau khắc phục khó khăn tìm ra giải pháp tối ưu nhất để thực hiện. Thực tế, giảng viên của những cơ sở ĐT, BD cán bộ cấp xã còn thiếu tính liên tục và kế thừa dẫn đến thiếu đồng bộ về cơ cấu và độ tuổi, giảng viên trẻ vừa thiếu kinh nghiệm QL vừa chưa được đào tạo theo đúng chuyên ngành sâu nên phải bỏ nhiều công sức cho việc tự bồi dưỡng để giảng dạy các lớp bồi dưỡng cán bộ cấp xã (trong đó có lớp bồi dưỡng cán bộ CCCX). Điều đó dẫn đến tình trạng soạn bài, giảng bài vẫn còn mang tính lí luận hàn lâm, tính thực tiễn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của người học và yêu cầu của các cơ sở ĐT, BD cũng như yêu cầu của cấp xã, phường, thị trấn. Một số giảng viên trẻ chưa thực sự tâm huyết với nghề, nghiệp vụ sư phạm còn yếu, ít đi thực tế cơ sở hoặc dự giờ để trau dồi cho bài giảng, tăng vốn sống, vốn hiểu biết. Bên cạnh đó, giảng viên mời giảng: có học hàm học vị cao nhưng vì thời gian bồi dưỡng hạn hẹp nên chưa truyền tải hết những kiến thức cũng như thông điệp tới người học. 2.3.2. Yếu tố khách quan (xem bảng 4) Nhận xét: Theo đánh giá của CBQL, giảng viên và học viên về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến QL HĐBD cán bộ CCCX mà các cơ sở ĐT,BD đã và đang triển khai ở mức độ trung bình khá, điểm trung bình chung X 2,61 . Mức độ ảnh hưởng của các nội dung trên không đồng đều nhau và xếp theo thứ bậc như sau: Nội dung “Cơ chế QL” được đánh giá ảnh hưởng nhất, với điểm trung bình X 2,64 xếp bậc 1/5. Nội dung “Khoa học công nghệ” xếp ở vị trí 5/5 với X = 2,58. Ngày nay, công tác bồi dưỡng cán bộ cấp xã nói chung, cán bộ CCCX nói riêng đã được quy định khá rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật, đó là những căn cứ pháp lý quan trọng để triển khai công tác này. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Ưu điểm Trong quá trình triển khai bồi dưỡng cán bộ CCCX, luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp từ UBND tỉnh, Sở Nội vụ, các cơ sở ĐT, BD cán bộ CCCX đến huyện, xã, phường, thị trấn trên tất cả các khâu chỉ đạo, chuẩn bị, lên kế hoạch, tổ chức triển khai và kết thúc quá trình bồi dưỡng. Công tác cán bộ đã được chính quyền cấp xã, phường, thị trấn quan tâm đến công tác quy hoạch, ĐT, BD cán bộ. Cơ chế phân cấp, ủy quyền trong lĩnh vực QL cán bộ, công chức; trong tuyển dụng và sử dụng quỹ tiền lương, tiền công được từng bước thực hiện. Công tác ĐT, BD cán bộ được phân cấp hợp lý; tích cực đổi mới nội dung, hình thức ĐT, BD gắn với thực tế và yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ. Bảng 4. Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc QL HĐBD cán bộ CCCX TT Nội dung CBQL, giảng viên Học viên Chung Tổng điểm X (TB chung) Thứ bậc Tổng điểm X (TB chung) Thứ bậc Tổng điểm X (TB chung) Thứ bậc 1 Cơ chế QL 395 2,63 2 742 2,65 1 1,137 2,64 1 2 Chính trị, pháp luật 400 2,67 1 733 2,62 2 1,133 2,63 2 3 Kinh tế và văn hóa xã hội 390 2,60 4 733 2,62 2 1,123 2,61 3 4 Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế 392 2,61 3 722 2,58 3 1,114 2,59 4 5 Khoa học công nghệ 389 2,59 5 722 2,58 3 1,111 2,58 5 Tổng trung bình chung 2,62 2,61 2,61 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 109-114 113 Đội ngũ cán bộ được từng bước được chuẩn hóa, đã có sự chuyển biến mạnh về phong cách làm việc, trách nhiệm và chất lượng phục vụ nhân dân. Chất lượng cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao; nhất là cấp xã, phường, thị trấn đã từng bước được nâng cao hơn trước, đã bước đầu phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Bản thân cán bộ CCCX cũng tự nhận thấy tầm quan trọng của việc bồi dưỡng, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ năng cho bản thân mình để phục vụ cho chính công việc ở địa phương. 2.4.2. Hạn chế Tuy chất lượng cán bộ CCCX có được nâng cao hơn trước, song số cán bộ chủ chốt có trình độ, kĩ năng chuyên môn, tính chuyên nghiệp cao chưa nhiều. Hiện nay, còn nhiều cơ quan, tổ chức, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng và QL cán bộ còn nặng về văn bằng, chứng chỉ, chưa chú trọng nhiều đến năng lực của cán bộ; việc ĐT, BD chưa gắn với nhu cầu sử dụng; chưa có cơ chế và chính sách phù hợp để thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và QL cán bộ. Phạm vi chuyên môn của giảng viên trong các cơ sở ĐT, BD cán bộ cấp xã còn hạn chế, chậm được cập nhật, ít có cơ hội tiếp cận với các thành tựu mới về khoa học QL của thế giới, về công nghệ mới trong ĐT, BD; chưa được đầu tư thích đáng các điều kiện cho nghiên cứu khoa học... Năng lực của CBQL, giảng viên, công nhân viên các cơ sở ĐT, BD chưa đáp ứng được với yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra, thể hiện ở: CBQL còn ôm đồm nhiều việc, cùng lúc QL nhiều hoạt động khác nhau của cơ sở ĐT, BD; số đông giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ chưa có kinh nghiệm thực tiễn dẫn đến tình trạng soạn bài, giảng bài còn mang tính lí luận hàn lâm, xa rời thực tế; giáo viên chủ nhiệm lớp còn nể nang vì tất cả học viên đều là những cán bộ CCCX, là những người trưởng thành đi học. Chính điều đó dẫn đến việc QL chuyên cần của lớp học đôi khi còn “nề hà”, lỏng lẻo, ảnh hưởng đến chất lượng bồi dưỡng. Nội dung ĐT, BD thiếu sinh động, thiếu thực tế, chưa linh hoạt, tính cập nhật chưa cao. Chất lượng HĐBD còn chưa theo kịp với những yêu cầu của xã hội. Nguyên nhân do: nội dung, chương trình, tài liệu bồi dưỡng còn thiếu tính hệ thống: nặng về kiến thức hàn lâm, hạn chế về tính thực tiễn của công tác QL; phương pháp bồi dưỡng còn chậm đổi mới: nặng về thuyết trình, chưa sử dụng và khai thác triệt để phương pháp dạy học hiện đại. Cơ sở vật chất trang thiết bị của các cơ sở ĐT, BD cán bộ CCCX những năm gần đây mặc dù đã được đầu tư trang bị song thực tế chưa đủ chất lượng để đáp ứng cho hoạt động ĐT, BD được như mong muốn, ví dụ: Diện tích của các cơ sở ĐT, BD trên địa bàn tỉnh Thái Bình còn chưa đạt chuẩn quy định. Hệ thống phòng học và giảng đường cũng thiếu chưa đáp ứng với yêu cầu dạy và học. Các trường đều nối mạng internet và cài đặt các phần mềm hỗ trợ giảng dạy nhưng tốc độ đường truyền chưa cao, khi có nhiều người cùng truy cập là bị quá tải, hệ thống máy tính đều ở cấu hình thấp nên khi học thực hành còn nảy sinh nhiều sự cố. Về thư viện: các cơ sở đều có thư viện, tuy nhiên tài liệu, sách trong thư viện thường đã cũ, chưa được cập nhật những tài liệu mới nhất. Các cơ sở ĐT, BD đều có kế hoạch bổ sung đầu sách hàng năm, tuy nhiên, do kinh phí hạn hẹp nên số lượng bổ sung hạn chế. Về thiết bị dạy học, nhìn chung cũng thiếu nhiều và chưa đồng bộ, chưa cập nhật các thiết bị hiện đại, hệ thống máy chiếu đều đã sử dụng lâu năm nên chất lượng không còn tốt, dẫn đến hình ảnh chiếu nên bị mờ, chính vì vậy việc đổi mới phương pháp hiệu quả chưa cao. Nguồn ngân sách chi cho công tác bồi dưỡng còn hạn hẹp, chưa có cơ chế đặc thù cho HĐBD cán bộ cấp xã. Bên cạnh đó, nhu cầu được học bồi dưỡng của học viên có nhiều biến động. Một số lượng không nhỏ cán bộ CCCX có nhu cầu được học bồi dưỡng cấp chứng chỉ cũng như bồi dưỡng cập nhật các chuyên đề ngắn ngày hằng năm nhưng các cơ sở ĐT, BD vẫn chưa đáp ứng đủ. Có những xã, phường, thị trấn phải tự bỏ kinh phí và chủ động mời các chuyên gia về bồi dưỡng. Nhưng vẫn còn số ít học viên chưa coi trọng việc bồi dưỡng, họ đi học cho xong, họ đến lớp với tinh thần “đánh trống ghi tên”, ý thức học không cao, mục tiêu chính là nhận tấm chứng chỉ cho “hoàn thiện hồ sơ”. Những hạn chế nói trên làm cho hoạt động công vụ chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong quá trình phục vụ nhân dân. Việc thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu kém về năng lực, chuyên môn trong một bộ phận cán bộ làm cho bộ máy hành chính hoạt động trì trệ, kém hiệu quả; tình trạng quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân vẫn tồn tại trong một bộ phận cán bộ. Một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa chủ động trong việc phối hợp với cơ sở mở lớp, dẫn đến còn lớp trong kế hoạch nhưng không triển khai kịp. Trong chiêu sinh còn cử cán bộ không đúng đối tượng, tiêu chuẩn, hay cử số lượng đi bồi dưỡng quá hoặc thiếu chỉ tiêu được phân bổ tham gia bồi dưỡng. Mục tiêu bồi dưỡng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; nội dung và cấu trúc kiến thức của từng chuyên đề trong chương trình bồi dưỡng cán bộ cấp xã, phường, thị trấn còn những điều bất hợp lí, thiếu nhất quán, còn thiếu thực tiễn. Giữa chương trình, nội dung bồi dưỡng và những đòi hỏi thực tiễn phát sinh trong công tác lãnh đạo, QL luôn có khoảng cách. Trong khi đại bộ phận học viên là những VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 109-114 114 người trực tiếp hoạt động thực tiễn thì thiếu lí luận, còn giáo trình thì chỉ thuần tuý lí luận mà ít có những tình huống phát sinh sinh động như trong thực tế. Cơ chế tương tác giữa người dạy và người học nhằm khai thác những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác lãnh đạo, QL của họ vào chính ngay quá trình xây dựng chương trình và biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy chưa được chú trọng đúng mức. Sự quan tâm, đầu tư của cơ sở ĐT, BD cho ĐT, BD cán bộ CCCX chưa tương xứng, quá chú trọng mở rộng quy mô, đa dạng hóa các chuyên ngành đào tạo chính quy, với đối tượng ngày càng mở rộng; coi nhẹ việc bồi dưỡng chức danh, chuyên môn, nghiệp vụ sâu. Phương pháp giảng dạy, mặc dù đã đưa phương pháp giảng dạy tích cực vào triển khai và bước đầu thu được những thành công nhất định, nhưng kết quả mang lại chưa tương xứng với mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật như nhà ở, căng tin, thư viện, phòng học, phòng thảo luận nhóm còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu; thiết bị phục vụ giảng dạy hiện có chưa đồng bộ về chủng loại và thế hệ công nghệ, chất lượng các thiết bị kỹ thuật hạn chế nên việc truyền dẫn thông tin, hình ảnh, âm thanh thiếu chuẩn, gây ức chế cho học viên và giảng viên. Hệ thống thư viện chưa được cập nhật thường xuyên nên tài liệu không đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu. Kết cấu hạ tầng phục vụ ăn, ở cho học viên trong các kí túc xá, cơ sở phục vụ thể thao, rèn luyện sức khỏe cho học viên đã có nhưng vẫn còn thiếu, hạn chế. Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng bồi dưỡng: Việc đánh giá kết quả học tập của học viên hầu như chỉ mới dừng lại ở công đoạn cuối cùng là kiểm tra, thảo luận, viết thu hoạch nên chưa khuyến khích được học viên tích cực tham gia vào quy trình dạy học theo phương pháp dạy tiên tiến; chưa thực sự đánh giá chính xác năng lực học tập và ý thức của học viên trong cả quá trình học tập. Việc đánh giá đôi lúc chưa thật khách quan, đôi khi còn nể nang. Phương pháp thực hiện đánh giá sau quá trình bồi dưỡng chức danh cán bộ CCCX chưa được triển khai, chưa có kế hoạch chi tiết, đồng bộ của cơ sở ĐT, BD và địa phương. 3. Kết luận Trong những năm qua, các cơ sở ĐT, BD cán bộ CCCX trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã có nhiều cố gắng trong công tác QL HĐBD cán bộ cấp xã nói chung, cán bộ CCCX nói riêng. Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu đạt được thì vẫn còn những tồn tại cần khắc phục; công tác tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá ở một số khâu chưa mang lại hiệu quả cao; hình thức tổ chức các hoạt động bồi dưỡng chưa phong phú, thiếu các biện pháp QL phù hợp, đồng bộ; những hạn chế trong việc QL HĐBD cán bộ CCCX tại các cơ sở ĐT, BD ở tỉnh Thái Bình có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Để khắc phục tình trạng này, các nhà QL cần có sự chuyển biến thực sự về nhận thức trong công tác QL HĐBD cán bộ CCCX nói riêng và công tác QL nói chung. CBQL, giảng viên, và cán bộ CCCX đang tham gia bồi dưỡng tại các cơ sở ĐT, BD trên địa bàn tỉnh Thái Bình có nhận thức khá rõ về vai trò của công tác này đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ CCCX. Có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến QL hoạt động bồi dưỡng cán bộ CCCX trong bối cảnh hiện nay, trong đó các yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất là năng lực của CBQL, đội ngũ giảng viên/báo cáo viên và của chính cán bộ CCCX trực tiếp tham gia khóa bồi dưỡng. Tài liệu tham khảo [1] Tỉnh ủy Thái Bình (2007). Báo cáo số 83-BC/TU, ngày 5/9 về sơ kết 5 năm thực hiện Đề án 26 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đào tạo cán bộ xã, phường, thị trấn có trình độ cao đẳng đại học. [2] Tỉnh ủy Thái Bình (2009). Đề án 02-ĐA/TU của về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lí giai đoạn 2009-2020. [3] UBND tỉnh Thái Bình. Quyết định số 1671, ngày 10/7/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Thái Bình đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. [4] UBND tỉnh Thái Bình. Kế hoạch số 96/KH- UBND tỉnh Thái Bình, triển khai thực hiện Đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Thái Bình đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. [5] Chính phủ. Nghị định 114/2003/NĐ-CP, ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. [6] Chính phủ. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn. [7] Chính phủ. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. [8] Bộ Nội vụ. Thông tư số 01/2018 TT-BNV hướng dẫn một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. [9] Trần Kim Dung (2005). Giáo trình Quản trị nguồn nhân lực. NXB Giáo dục.
File đính kèm:
- thuc_trang_quan_li_hoat_dong_boi_duong_can_bo_chu_chot_cap_x.pdf