Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay

1. Mở đầu

Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở,

nơi thực hiện trực tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc quan

tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn

(gọi tắt là cán bộ cấp xã) nói chung, cán bộ chủ chốt cấp

xã (CCCX) nói riêng có đủ phẩm chất, năng lực là nhiệm

vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước

mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của

Đảng. Để đội ngũ cán bộ CCCX có đủ trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ hoàn thành tốt công việc tại địa phương

thì cần không ngừng bồi dưỡng thường xuyên. Để hoạt

động bồi dưỡng mang lại hiệu quả cao thì việc quản lí

(QL) hoạt động đó giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.

Hoạt động bồi dưỡng cán bộ CCCX có thể diễn ra ở các

trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, trường Chính

trị tỉnh, trường đại học trong phạm vi bài viết này gọi

chung là các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng (ĐT, BD).

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay trang 1

Trang 1

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay trang 2

Trang 2

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay trang 3

Trang 3

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay trang 4

Trang 4

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay trang 5

Trang 5

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 2700
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay

Thực trạng quản lí hoạt động bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp xã tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở tỉnh Thái Bình trong bối cảnh hiện nay
ĐT, BD 
371 2,47 2 673 2,40 5 1,044 2,43 3 
2 
Môi trường sư 
phạm của cơ sở 
ĐT,BD 
359 2,39 4 682 2,44 2 1,041 2,42 4 
3 
Điều kiện cơ sở vật 
chất 
348 2,32 5 680 2,43 3 1,028 2,39 5 
4 
Trình độ, phẩm chất, 
năng lực của CBQL 
367 2,45 3 681 2,43 3 1,048 2,44 2 
5 
Trình độ, nhận 
thức, năng lực của 
lực lượng tham gia 
BD (người dạy) 
375 2,50 1 694 2,48 1 1,069 2,49 1 
6 
Đối tượng được bồi 
dưỡng (học viên) 
367 2,45 3 681 2,43 3 1,048 2,44 2 
Tổng trung bình 
chung 
 2,38 2,41 2,40 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 109-114 
112 
bình, điểm trung bình chung là X 2,40 . Mức độ ảnh 
hưởng của các nội dung trên không đồng đều nhau và xếp 
theo thứ bậc như sau: Nội dung “Trình độ, nhận thức, năng 
lực của lực lượng tham gia bồi dưỡng (người dạy)” được 
đánh giá ảnh hưởng nhất, với điểm trung bình X 2,49 
xếp bậc 1/6, xếp thứ bậc thứ 2 với X=2,44 là nội dung 
“Trình độ, phẩm chất, năng lực của CBQL” và nội dung 
“Đối tượng được bồi dưỡng (học viên)”, điều này cũng phù 
hợp, bởi quyết định tới sự thành công hay thất bại của bất kì 
hoạt động nào đều do nhân tố con người, khi mọi điều kiện 
đều đảm bảo, nhưng con người không nỗ lực, cố gắng, 
quyết tâm thực hiện thì kết quả cũng không thể tốt được, còn 
khi con người quyết tâm thực hiện nhiệm vụ với mong 
muốn công việc đạt hiệu quả cao nhất thì sẽ chủ động, sáng 
tạo, kết hợp giữa các bộ phận liên quan cùng nhau khắc phục 
khó khăn tìm ra giải pháp tối ưu nhất để thực hiện. 
Thực tế, giảng viên của những cơ sở ĐT, BD cán bộ cấp 
xã còn thiếu tính liên tục và kế thừa dẫn đến thiếu đồng bộ về 
cơ cấu và độ tuổi, giảng viên trẻ vừa thiếu kinh nghiệm QL 
vừa chưa được đào tạo theo đúng chuyên ngành sâu nên phải 
bỏ nhiều công sức cho việc tự bồi dưỡng để giảng dạy các lớp 
bồi dưỡng cán bộ cấp xã (trong đó có lớp bồi dưỡng cán bộ 
CCCX). Điều đó dẫn đến tình trạng soạn bài, giảng bài vẫn 
còn mang tính lí luận hàn lâm, tính thực tiễn còn hạn chế, chưa 
đáp ứng yêu cầu của người học và yêu cầu của các cơ sở ĐT, 
BD cũng như yêu cầu của cấp xã, phường, thị trấn. Một số 
giảng viên trẻ chưa thực sự tâm huyết với nghề, nghiệp vụ sư 
phạm còn yếu, ít đi thực tế cơ sở hoặc dự giờ để trau dồi cho 
bài giảng, tăng vốn sống, vốn hiểu biết. Bên cạnh đó, giảng 
viên mời giảng: có học hàm học vị cao nhưng vì thời gian bồi 
dưỡng hạn hẹp nên chưa truyền tải hết những kiến thức cũng 
như thông điệp tới người học. 
2.3.2. Yếu tố khách quan (xem bảng 4) 
Nhận xét: Theo đánh giá của CBQL, giảng viên và học 
viên về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan đến 
QL HĐBD cán bộ CCCX mà các cơ sở ĐT,BD đã và đang 
triển khai ở mức độ trung bình khá, điểm trung bình chung 
X 2,61 . Mức độ ảnh hưởng của các nội dung trên 
không đồng đều nhau và xếp theo thứ bậc như sau: Nội 
dung “Cơ chế QL” được đánh giá ảnh hưởng nhất, với 
điểm trung bình X 2,64 xếp bậc 1/5. Nội dung “Khoa 
học công nghệ” xếp ở vị trí 5/5 với X = 2,58. 
Ngày nay, công tác bồi dưỡng cán bộ cấp xã nói 
chung, cán bộ CCCX nói riêng đã được quy định khá rõ 
ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật, đó là những 
căn cứ pháp lý quan trọng để triển khai công tác này. 
2.4. Đánh giá chung 
2.4.1. Ưu điểm 
Trong quá trình triển khai bồi dưỡng cán bộ CCCX, 
luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp từ 
UBND tỉnh, Sở Nội vụ, các cơ sở ĐT, BD cán bộ CCCX 
đến huyện, xã, phường, thị trấn trên tất cả các khâu chỉ 
đạo, chuẩn bị, lên kế hoạch, tổ chức triển khai và kết thúc 
quá trình bồi dưỡng. 
Công tác cán bộ đã được chính quyền cấp xã, 
phường, thị trấn quan tâm đến công tác quy hoạch, ĐT, 
BD cán bộ. Cơ chế phân cấp, ủy quyền trong lĩnh vực 
QL cán bộ, công chức; trong tuyển dụng và sử dụng quỹ 
tiền lương, tiền công được từng bước thực hiện. 
Công tác ĐT, BD cán bộ được phân cấp hợp lý; tích 
cực đổi mới nội dung, hình thức ĐT, BD gắn với thực tế 
và yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ. 
Bảng 4. Những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến việc QL HĐBD cán bộ CCCX 
TT Nội dung 
CBQL, giảng viên Học viên Chung 
Tổng 
điểm 
X (TB 
chung) 
Thứ 
bậc 
Tổng 
điểm 
X (TB 
chung) 
Thứ 
bậc 
Tổng 
điểm 
X (TB 
chung) 
Thứ 
bậc 
1 Cơ chế QL 395 2,63 2 742 2,65 1 1,137 2,64 1 
2 Chính trị, pháp luật 400 2,67 1 733 2,62 2 1,133 2,63 2 
3 
Kinh tế và văn hóa 
xã hội 
390 2,60 4 733 2,62 2 1,123 2,61 3 
4 
Toàn cầu hóa và 
hội nhập quốc tế 
392 2,61 3 722 2,58 3 1,114 2,59 4 
5 
Khoa học công 
nghệ 
389 2,59 5 722 2,58 3 1,111 2,58 5 
Tổng trung bình 
chung 
 2,62 2,61 2,61 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 109-114 
113 
Đội ngũ cán bộ được từng bước được chuẩn hóa, đã 
có sự chuyển biến mạnh về phong cách làm việc, trách 
nhiệm và chất lượng phục vụ nhân dân. Chất lượng cán 
bộ, công chức ngày càng được nâng cao; nhất là cấp xã, 
phường, thị trấn đã từng bước được nâng cao hơn trước, 
đã bước đầu phát huy hiệu quả trong thực tiễn. 
Bản thân cán bộ CCCX cũng tự nhận thấy tầm quan 
trọng của việc bồi dưỡng, tự bồi dưỡng để nâng cao trình 
độ chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ năng cho bản thân mình 
để phục vụ cho chính công việc ở địa phương. 
2.4.2. Hạn chế 
Tuy chất lượng cán bộ CCCX có được nâng cao hơn 
trước, song số cán bộ chủ chốt có trình độ, kĩ năng 
chuyên môn, tính chuyên nghiệp cao chưa nhiều. 
Hiện nay, còn nhiều cơ quan, tổ chức, việc tuyển 
dụng, bổ nhiệm, sử dụng và QL cán bộ còn nặng về văn 
bằng, chứng chỉ, chưa chú trọng nhiều đến năng lực của 
cán bộ; việc ĐT, BD chưa gắn với nhu cầu sử dụng; chưa 
có cơ chế và chính sách phù hợp để thúc đẩy việc nâng 
cao chất lượng và QL cán bộ. 
Phạm vi chuyên môn của giảng viên trong các cơ sở 
ĐT, BD cán bộ cấp xã còn hạn chế, chậm được cập nhật, 
ít có cơ hội tiếp cận với các thành tựu mới về khoa học 
QL của thế giới, về công nghệ mới trong ĐT, BD; chưa 
được đầu tư thích đáng các điều kiện cho nghiên cứu 
khoa học... Năng lực của CBQL, giảng viên, công nhân 
viên các cơ sở ĐT, BD chưa đáp ứng được với yêu cầu 
và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra, thể hiện ở: CBQL còn ôm 
đồm nhiều việc, cùng lúc QL nhiều hoạt động khác nhau 
của cơ sở ĐT, BD; số đông giảng viên, đặc biệt là giảng 
viên trẻ chưa có kinh nghiệm thực tiễn dẫn đến tình trạng 
soạn bài, giảng bài còn mang tính lí luận hàn lâm, xa rời 
thực tế; giáo viên chủ nhiệm lớp còn nể nang vì tất cả học 
viên đều là những cán bộ CCCX, là những người trưởng 
thành đi học. Chính điều đó dẫn đến việc QL chuyên cần 
của lớp học đôi khi còn “nề hà”, lỏng lẻo, ảnh hưởng đến 
chất lượng bồi dưỡng. 
Nội dung ĐT, BD thiếu sinh động, thiếu thực tế, chưa 
linh hoạt, tính cập nhật chưa cao. Chất lượng HĐBD còn 
chưa theo kịp với những yêu cầu của xã hội. Nguyên 
nhân do: nội dung, chương trình, tài liệu bồi dưỡng còn 
thiếu tính hệ thống: nặng về kiến thức hàn lâm, hạn chế 
về tính thực tiễn của công tác QL; phương pháp bồi 
dưỡng còn chậm đổi mới: nặng về thuyết trình, chưa sử 
dụng và khai thác triệt để phương pháp dạy học hiện đại. 
Cơ sở vật chất trang thiết bị của các cơ sở ĐT, BD cán 
bộ CCCX những năm gần đây mặc dù đã được đầu tư 
trang bị song thực tế chưa đủ chất lượng để đáp ứng cho 
hoạt động ĐT, BD được như mong muốn, ví dụ: Diện tích 
của các cơ sở ĐT, BD trên địa bàn tỉnh Thái Bình còn chưa 
đạt chuẩn quy định. Hệ thống phòng học và giảng đường 
cũng thiếu chưa đáp ứng với yêu cầu dạy và học. Các 
trường đều nối mạng internet và cài đặt các phần mềm hỗ 
trợ giảng dạy nhưng tốc độ đường truyền chưa cao, khi có 
nhiều người cùng truy cập là bị quá tải, hệ thống máy tính 
đều ở cấu hình thấp nên khi học thực hành còn nảy sinh 
nhiều sự cố. Về thư viện: các cơ sở đều có thư viện, tuy 
nhiên tài liệu, sách trong thư viện thường đã cũ, chưa được 
cập nhật những tài liệu mới nhất. Các cơ sở ĐT, BD đều 
có kế hoạch bổ sung đầu sách hàng năm, tuy nhiên, do kinh 
phí hạn hẹp nên số lượng bổ sung hạn chế. Về thiết bị dạy 
học, nhìn chung cũng thiếu nhiều và chưa đồng bộ, chưa 
cập nhật các thiết bị hiện đại, hệ thống máy chiếu đều đã 
sử dụng lâu năm nên chất lượng không còn tốt, dẫn đến 
hình ảnh chiếu nên bị mờ, chính vì vậy việc đổi mới 
phương pháp hiệu quả chưa cao. Nguồn ngân sách chi cho 
công tác bồi dưỡng còn hạn hẹp, chưa có cơ chế đặc thù 
cho HĐBD cán bộ cấp xã. 
Bên cạnh đó, nhu cầu được học bồi dưỡng của học 
viên có nhiều biến động. Một số lượng không nhỏ cán bộ 
CCCX có nhu cầu được học bồi dưỡng cấp chứng chỉ 
cũng như bồi dưỡng cập nhật các chuyên đề ngắn ngày 
hằng năm nhưng các cơ sở ĐT, BD vẫn chưa đáp ứng đủ. 
Có những xã, phường, thị trấn phải tự bỏ kinh phí và chủ 
động mời các chuyên gia về bồi dưỡng. Nhưng vẫn còn 
số ít học viên chưa coi trọng việc bồi dưỡng, họ đi học 
cho xong, họ đến lớp với tinh thần “đánh trống ghi tên”, 
ý thức học không cao, mục tiêu chính là nhận tấm chứng 
chỉ cho “hoàn thiện hồ sơ”. 
Những hạn chế nói trên làm cho hoạt động công vụ 
chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động 
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong quá trình phục vụ 
nhân dân. Việc thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu kém về 
năng lực, chuyên môn trong một bộ phận cán bộ làm 
cho bộ máy hành chính hoạt động trì trệ, kém hiệu quả; 
tình trạng quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân 
vẫn tồn tại trong một bộ phận cán bộ. 
Một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa chủ động 
trong việc phối hợp với cơ sở mở lớp, dẫn đến còn lớp 
trong kế hoạch nhưng không triển khai kịp. Trong chiêu 
sinh còn cử cán bộ không đúng đối tượng, tiêu chuẩn, 
hay cử số lượng đi bồi dưỡng quá hoặc thiếu chỉ tiêu 
được phân bổ tham gia bồi dưỡng. 
Mục tiêu bồi dưỡng vẫn còn nhiều điểm chưa phù 
hợp, chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; nội dung và cấu 
trúc kiến thức của từng chuyên đề trong chương trình bồi 
dưỡng cán bộ cấp xã, phường, thị trấn còn những điều 
bất hợp lí, thiếu nhất quán, còn thiếu thực tiễn. 
Giữa chương trình, nội dung bồi dưỡng và những đòi 
hỏi thực tiễn phát sinh trong công tác lãnh đạo, QL luôn 
có khoảng cách. Trong khi đại bộ phận học viên là những 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 109-114 
114 
người trực tiếp hoạt động thực tiễn thì thiếu lí luận, còn 
giáo trình thì chỉ thuần tuý lí luận mà ít có những tình 
huống phát sinh sinh động như trong thực tế. Cơ chế 
tương tác giữa người dạy và người học nhằm khai thác 
những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác lãnh đạo, QL 
của họ vào chính ngay quá trình xây dựng chương trình 
và biên soạn giáo trình, tài liệu giảng dạy chưa được chú 
trọng đúng mức. 
Sự quan tâm, đầu tư của cơ sở ĐT, BD cho ĐT, BD 
cán bộ CCCX chưa tương xứng, quá chú trọng mở rộng 
quy mô, đa dạng hóa các chuyên ngành đào tạo chính 
quy, với đối tượng ngày càng mở rộng; coi nhẹ việc bồi 
dưỡng chức danh, chuyên môn, nghiệp vụ sâu. 
Phương pháp giảng dạy, mặc dù đã đưa phương pháp 
giảng dạy tích cực vào triển khai và bước đầu thu được 
những thành công nhất định, nhưng kết quả mang lại 
chưa tương xứng với mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. 
Điều kiện cơ sở vật chất, kĩ thuật như nhà ở, căng tin, 
thư viện, phòng học, phòng thảo luận nhóm còn thiếu, 
chưa đáp ứng nhu cầu; thiết bị phục vụ giảng dạy hiện có 
chưa đồng bộ về chủng loại và thế hệ công nghệ, chất 
lượng các thiết bị kỹ thuật hạn chế nên việc truyền dẫn 
thông tin, hình ảnh, âm thanh thiếu chuẩn, gây ức chế cho 
học viên và giảng viên. Hệ thống thư viện chưa được cập 
nhật thường xuyên nên tài liệu không đáp ứng nhu cầu học 
tập, nghiên cứu. Kết cấu hạ tầng phục vụ ăn, ở cho học 
viên trong các kí túc xá, cơ sở phục vụ thể thao, rèn luyện 
sức khỏe cho học viên đã có nhưng vẫn còn thiếu, hạn chế. 
Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng bồi dưỡng: 
Việc đánh giá kết quả học tập của học viên hầu như chỉ 
mới dừng lại ở công đoạn cuối cùng là kiểm tra, thảo luận, 
viết thu hoạch nên chưa khuyến khích được học viên tích 
cực tham gia vào quy trình dạy học theo phương pháp dạy 
tiên tiến; chưa thực sự đánh giá chính xác năng lực học tập 
và ý thức của học viên trong cả quá trình học tập. Việc 
đánh giá đôi lúc chưa thật khách quan, đôi khi còn nể nang. 
Phương pháp thực hiện đánh giá sau quá trình bồi 
dưỡng chức danh cán bộ CCCX chưa được triển khai, 
chưa có kế hoạch chi tiết, đồng bộ của cơ sở ĐT, BD và 
địa phương. 
3. Kết luận 
Trong những năm qua, các cơ sở ĐT, BD cán bộ 
CCCX trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã có nhiều cố gắng 
trong công tác QL HĐBD cán bộ cấp xã nói chung, cán 
bộ CCCX nói riêng. Bên cạnh những ưu điểm, thành tựu 
đạt được thì vẫn còn những tồn tại cần khắc phục; công 
tác tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá ở một số khâu 
chưa mang lại hiệu quả cao; hình thức tổ chức các hoạt 
động bồi dưỡng chưa phong phú, thiếu các biện pháp QL 
phù hợp, đồng bộ; những hạn chế trong việc QL HĐBD 
cán bộ CCCX tại các cơ sở ĐT, BD ở tỉnh Thái Bình có 
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Để 
khắc phục tình trạng này, các nhà QL cần có sự chuyển 
biến thực sự về nhận thức trong công tác QL HĐBD cán 
bộ CCCX nói riêng và công tác QL nói chung. 
CBQL, giảng viên, và cán bộ CCCX đang tham gia 
bồi dưỡng tại các cơ sở ĐT, BD trên địa bàn tỉnh Thái 
Bình có nhận thức khá rõ về vai trò của công tác này đối 
với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho 
cán bộ CCCX. 
Có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến 
QL hoạt động bồi dưỡng cán bộ CCCX trong bối cảnh hiện 
nay, trong đó các yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất là năng 
lực của CBQL, đội ngũ giảng viên/báo cáo viên và của 
chính cán bộ CCCX trực tiếp tham gia khóa bồi dưỡng. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Tỉnh ủy Thái Bình (2007). Báo cáo số 83-BC/TU, 
ngày 5/9 về sơ kết 5 năm thực hiện Đề án 26 của 
Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đào tạo cán bộ xã, 
phường, thị trấn có trình độ cao đẳng đại học. 
[2] Tỉnh ủy Thái Bình (2009). Đề án 02-ĐA/TU của về 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lí giai 
đoạn 2009-2020. 
[3] UBND tỉnh Thái Bình. Quyết định số 1671, ngày 
10/7/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển nguồn 
nhân lực tỉnh Thái Bình đến năm 2025, tầm nhìn đến 
năm 2030. 
[4] UBND tỉnh Thái Bình. Kế hoạch số 96/KH- UBND 
tỉnh Thái Bình, triển khai thực hiện Đề án phát triển 
nguồn nhân lực tỉnh Thái Bình đến năm 2025, tầm 
nhìn đến năm 2030. 
[5] Chính phủ. Nghị định 114/2003/NĐ-CP, ngày 
10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, 
phường, thị trấn. 
[6] Chính phủ. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP, ngày 
21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối 
với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn. 
[7] Chính phủ. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 
01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán 
bộ, công chức, viên chức. 
[8] Bộ Nội vụ. Thông tư số 01/2018 TT-BNV hướng dẫn 
một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP 
ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi 
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. 
[9] Trần Kim Dung (2005). Giáo trình Quản trị 
nguồn nhân lực. NXB Giáo dục.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_quan_li_hoat_dong_boi_duong_can_bo_chu_chot_cap_x.pdf