Thực trạng phát triển doanh nghiệp tư nhân và các chính sách hỗ trợ trong giai đoạn dịch Covid-19
Những năm gần đây, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng khẳng định được vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, doanh nghiệp tư nhân (DNTN) cũng phải
đối mặt với nhiều khó khăn khi phần lớn các DNTN là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, khi dịch COVID-19 đang ngày càng diễn biến phức tạp, ảnh hưởng rất
lớn đến sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các DNTN nói
riêng. Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm giúp cho doanh nghiệp vượt qua
những khó khăn, tuy nhiên, thực trạng thực thi các chính sách còn gặp nhiều vướng mắc. Bài viết
sẽ đánh giá thực trạng phát triển DNTN và các chính sách hỗ trợ trong giai đoạn dịch COVID-19,
từ đó đề xuất giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các DNTN khi tiếp cận các chính sách hỗ trợ để các
doanh nghiệp có thể phục hồi và tiếp tục phát triển giai đoạn “hậu COVID-19”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng phát triển doanh nghiệp tư nhân và các chính sách hỗ trợ trong giai đoạn dịch Covid-19
c tiễn phát triển của nền kinh tế sau 30 năm Đổi mới. Theo Sách trắng Việt Nam năm 2019, DNTN trong nước tạo ra khoảng 42% GDP, đóng góp khoảng 30% thu ngân sách nhà nước. Đây là nỗ lực lớn của các DNTN trong việc tìm kiếm thị trường, tạo thời cơ, vận hội mới không chỉ cho doanh nghiệp phát triển, mà còn tạo ra diện mạo mới cho toàn bộ nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, trước bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, dịch bệnh COVID-19, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt việc phát triển DNTN ở Việt Nam đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ vừa mang tính cụ thể trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài để bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, nghiên cứu thực trạng phát triển của các DNTN và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ DNTN trong giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết, từ đó, đề xuất những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các DNTN khi thực thi các chính sách này. Đây cũng chính là mục tiêu mà nghiên cứu hướng đến. 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ CÁC CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TRONG GIAI ĐOẠN DỊCH COVID-19 2.1. Thực trạng của các doanh nghiệp tư nhân • Về số lượng và quy mô doanh nghiệp Hình 1. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập và ngừng hoạt động giai đoạn 2011 - 2019 77,548 69,784 76,955 74,842 94,754 110,000 126,859 131,300 138,100 54,198 54,216 60,737 67,823 80,858 73,000 60,533 90,651 72,400 0 20,000 40,000 60,000 80,000 100,000 120,000 140,000 160,000 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 DN thành lập DN ngừng hoạt động Nguồn: Tổng cục Thống kê KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 664 Năm 2019 cả nước có 138.100 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 5,2% về số doanh nghiệp so với năm 2018. Tuy nhiên, cũng trong năm 2019, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động là 72.400, giảm 20,1% so với năm 2018. Theo đó, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế năm 2018 lên đến 758.610 doanh nghiệp, tăng 6,1% so với cùng thời điểm năm 2018. Bảng 1. Phân bổ doanh nghiệp theo quy mô lao động và hình thức sở hữu năm 2018 Loại hình sở hữu Tổng cộng DNNN DNTN DNFDI Q uy m ô D N th eo la o độ ng DNNVV Số lượng (DN) 1.495 569.106 12.700 583.301 Tỷ lệ theo dòng (%) 0,26 97,57 2,18 98,33 Tỷ lệ theo cột (%) 59,16 98,95 81,87 DN lớn Số lượng (DN) 1.032 6.039 2.812 9.883 Tỷ lệ theo dòng (%) 10,44 61,10 28,45 1,67 Tỷ lệ theo cột (%) 40,84 1,05 28,45 Tổng cộng Số lượng (DN) 2.527 575.145 15.512 593.184 Tỷ lệ (%) 0,43 96,96 2,62 Nguồn: Xử lý dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp năm 2018 của Tổng cục Thống kê Theo số liệu Bảng 1 và Bảng 2, năm 2018 Việt Nam có khoảng 583 nghìn doanh nghiệp, trong đó có trên 596 nghìn DNTN và có tới hơn 97% là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Kết quả cũng tương tự nếu tính theo quy mô nguồn vốn. Theo đó, có đến 94,46% doanh nghiệp là DNNVV, các doanh nghiệp quy mô lớn chỉ chiếm 5,54% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Ngoài ra, có đến 97,96% các DNNVV thuộc khu vực tư nhân, trong khi trên 60% các DNNN có quy mô lớn. Bảng 2. Phân bổ doanh nghiệp theo quy mô vốn và hình thức sở hữu năm 2018 Loại hình sở hữu Tổng cộng DNNN DNTN DNFDI Q uy m ô D N th eo n gu ồn v ốn DNNVV Số lượng (DN) 975 548.856 10.465 560.296 Tỷ lệ theo dòng (%) 0,17 97,96 1,87 94,46 Tỷ lệ theo cột (%) 38,58 95,43 67,46 DN lớn Số lượng (DN) 1.552 26.289 5.047 32.888 Tỷ lệ theo dòng (%) 4,72 79,93 15,35 5,54 Tỷ lệ theo cột (%) 61,42 4,57 32,54 Tổng cộng Số lượng (DN) 2.527 575.145 15.512 593.184 Tỷ lệ (%) 0,43 96,96 2,62 Nguồn: Xử lý dữ liệu từ khảo sát doanh nghiệp năm 2018 của Tổng cục Thống kê Đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh hiện nay, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm nên bị áp lực về dòng tiền. Nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến các biện pháp cắt giảm dòng tiền chi ra trong bối cảnh doanh thu hạn chế. Kết quả khảo sát của Ban Nghiên cứu phát triển KTTN cho thấy, có hơn 60% doanh nghiệp được khảo sát chịu ảnh hưởng giảm hơn 50% doanh thu, 28,9% doanh nghiệp chịu ảnh hưởng giảm từ 20% - 50% doanh thu (Báo cáo kết quả khảo sát lần 1 của Ban Nghiên cứu phát triển KTTN). Có đến 74% số doanh nghiệp trả lời khảo KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 665 sát có nguy cơ phá sản do doanh thu không thể bù đắp chi phí hoạt động, chi lương cho người lao động, chi trả tiền lãi vay ngân hàng, chi phí thuê mặt bằng, các khoản thuế, phí... cho hoạt động sản xuất - kinh doanh và các chi phí khác. Đợt khảo sát lần thứ 3 của Ban Nghiên cứu phát triển KTTN vào tháng 8/2020 về những khó khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt trong thời gian tới cho thấy, có tới 76% doanh nghiệp được khảo sát trả lời, hiện nay không cân đối được thu chi, trong đó 54% có dòng tiền vào chỉ đáp ứng dưới 50% chi phí. • Về đóng góp cho nền kinh tế Trong những năm qua, khu vực KTTN đã góp phần quan trọng trong sự phát triển năng động của nền kinh tế, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập của người dân, mạnh dạn đột phá và đi đầu trong nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới. Do đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN phát triển cũng chính là tạo điều kiện để giải phóng các nguồn lực phát triển trong xã hội, để nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tối đa các tiềm năng to lớn của nó. DNTN tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm, đóng góp hơn 40% GDP mỗi năm. Phát triển KTTN là nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực KTTN liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng từ 40% - 43%; thu hút khoảng 85% lực lượng lao động. Đóng góp của khu vực KTTN trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (so với khu vực KTNN 28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 18% GDP). Thương hiệu của khu vực tư nhân không chỉ được ghi nhận ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế; đã xuất hiện những tập đoàn KTTN có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ cao. 2.2. Đánh giá các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân trong bối cảnh dịch COVID-19 Trong Báo cáo tác động của dịch COVID-19 đối với doanh nghiệp Việt Nam do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) thực hiện năm 2020, trong số 8.633 DNTN trong nước tham gia khảo sát có 87,1% doanh nghiệp cho biết chịu ảnh hưởng tiêu cực, 11% doanh nghiệp không bị ảnh hưởng, 2% doanh nghiệp hoạt động tích cực. Lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là may mặc (97% doanh nghiệp), thông tin, truyền thông (96% doanh nghiệp), thiết bị điện (94% doanh nghiệp), sản xuất xe có động cơ (93% doanh nghiệp) Trước tác động của dịch bệnh, Chính phủ đã nhanh chóng ban hành các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nói chung và các DNTN, DNNVV nói riêng như: Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 04/03/2020, Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/04/2020, Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/04/2020, Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/05/2020, Kết luận số 77-KL/TW ngày 5/6/2020, Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg ngày10/8/2020, Nghị định số 114/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020... Đầu năm 2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 tập trung vào cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. Theo đó, Nghị quyết đã bổ sung mở rộng các giải pháp trọng tâm thực hiện để phù hợp với tình hình mới, thích ứng với bối cảnh dịch COVID-19 và mục tiêu phát triển bền vững. Nhìn chung, các chính sách tập trung tháo gỡ các khó khăn lớn của các doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh như: đứt gãy nguồn cung nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ, thiếu hụt nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh, các vấn đề khó khăn về trả lương cho người lao động... Các KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 666 chính sách tập trung vào các nhóm giải pháp như: cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xét duyệt hồ sơ vay vốn; điều chỉnh về cơ cấu các khoản nợ và điều kiện cho vay; các chính sách về gia hạn, tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn; gia hạn nộp thuế (thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp) và gia hạn, giảm tiền thuê đất; không điều chỉnh tăng giá các yếu tố đầu vào; giảm thủ tục hành chính và hỗ trợ các chi phí logistics; hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu và tìm thị trường mới. Tuy nhiên, Báo cáo của VCCI cũng đánh giá việc các bộ, ngành thiết kế các chính sách chưa thật sự bám sát thực tiễn của cuộc sống, vẫn còn nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà chưa đáp ứng được kỳ vọng của doanh nghiệp. Chính những điều này khiến nhiều doanh nghiệp đặc biệt là các DNTN có quy mô nhỏ và vừa vẫn chưa tiếp cận được các gói hỗ trợ ứng phó với dịch COVID-19 của Chính phủ. Đáng chú ý là việc xác nhận của cơ quan chính quyền địa phương đang là một rào cản. Cụ thể: • Đối với các chính sách ưu đãi về cơ cấu nợ và vay ưu đãi Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong nộp hồ sơ nộp xin hưởng ưu đãi về chính sách cho vay và cơ cấu nợ. Cụ thể, để được hưởng ưu đãi, doanh nghiệp phải chứng minh trên báo cáo kế toán các ảnh hưởng của dịch COVID-19 làm suy giảm khả năng trả nợ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cho rằng, những tác động của dịch đối với doanh nghiệp thực tế hiện hữu, do vậy, ngân hàng và các tổ chức tín dụng bỏ yêu cầu về báo cáo chứng minh này. Các chính sách hỗ trợ tài chính mới chỉ tập trung cho các khoản vay bằng tiền VND, trong khi các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu lại có nhu cầu vay vốn bằng tiền USD rất nhiều. Bên cạnh đó, mặc dù lãi suất ngân hàng đã có điều chỉnh giảm, song vẫn ở mức cao đối với các doanh nghiệp nhỏ, đang trong giai đoạn khó khăn của ngành. • Đối với chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động Theo Nghị quyết 42/NQ-CP ngày 09/4/2020, doanh nghiệp - người sử dụng lao động được hỗ trợ cho vay để trả lương người lao động. Tuy nhiên, để nhận được hỗ trợ này, doanh nghiệp cần chứng minh 50% người lao động trong doanh nghiệp thiếu việc làm. Quy định này cũng gây khó khăn và kéo dài thời gian nộp hồ sơ để nhận hỗ trợ, trong khi đó doanh nghiệp cần được vay sớm, trả lương để giữ chân người lao động. • Các chính sách gia hạn thời gian nộp thuế Một số chính sách tại Nghị định 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 về gia hạn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất của doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với số thuế phát sinh từ tháng 3/2020 đến tháng 6/2020 và chỉ có thời hạn nộp giấy Đề nghị gia hạn trước ngày 30/7, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ ko được thụ hưởng nếu nộp sau thời gian này. 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Dịch COVID-19 đã tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp đặc biệt là các DNTN. Đây là khó khăn nhưng cũng là cơ hội để các doanh nghiệp nhìn nhận lại năng lực thực sự, sức chống chịu, thích ứng trước biến cố thị trường; rà soát, đánh giá, cơ cấu lại nguồn nguyên vật liệu, KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 667 khách hàng và tìm ra hướng đi mới chủ động hơn, xây dựng phương án đổi mới mô hình sản xuất, chiến lược kinh doanh mới nhanh chóng nắm bắt tín hiệu, nhu cầu mới của thị trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể tận dụng cơ hội này để tập trung đổi mới trang thiết bị, công nghệ với chi phí rẻ hơn; đồng thời thúc đẩy liên kết, mạng lưới cung ứng trong nước, giảm lệ thuộc vào nước ngoài, nâng cao chất lượng, giảm giá sản phẩm dịch vụ để tận dụng cơ hội chiếm lĩnh và củng cố thị phần. Bên cạnh đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp có thể đứng vững trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 như hiện nay, ngoài những chính sách đã thực hiện, Chính phủ cũng rất cần phải rà soát đánh giá cụ thể về hiệu quả của những chính sách này, đồng thời có kế hoạch triển khai những chính sách mới để các doanh nghiệp có thể phục hồi và tiếp tục phát triển giai đoạn “hậu COVID-19”. Cụ thể: - Tăng khả năng tiếp cập các gói hỗ trợ đặc biệt đối với các DNTN cũng như mở rộng đối tượng hỗ trợ các doanh nghiệp/lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi COVID-19 như hàng không, du lịch - Hỗ trợ DN trong việc đảm bảo dòng tiền thanh toán; giãn nợ, gia hạn nợ cho doanh nghiệp; tiếp tục gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất cho doanh nghiệp. Dịch COVID-19 tác động đến cả cung và cầu hàng hóa trên thị trường. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu và đẩy nhanh các gói cứu trợ nền kinh tế tác động đến cả cung và cầu. Ví dụ như: giảm thuế giá trị gia tăng giúp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, phục hồi được tiêu dùng, từ đó phát triển sản xuất. - Tái cơ cấu doanh nghiệp khu vực tư nhân nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ dịch bệnh COVID-19, tập trung vào các ngành, lĩnh vực chịu tác động nặng nề của dịch bệnh. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các kênh thông tin về xuất, nhập khẩu nhằm tìm kiếm thị trường mới nhập khẩu nguyên, vật liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử số, kinh tế số. - Hỗ trợ doanh nghiệp trong khơi thông nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu. Chính phủ cần tháo gỡ những vướng mắc về logistics, giảm thiểu tình trạng ách tắc ở biên giới do công tác phòng dịch. Khuyến khích phát triển ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho những ngành xuất khẩu chủ lực. Hỗ trợ các doanh nghiệp cung ứng vật tư trong nước để đảm bảo nguồn nguyên vật liệu trong nước. - Đồng thời, cần tập trung hỗ trợ những doanh nghiệp có đầu ra (có các đơn hàng) nhưng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Thực hiện phân nhóm cụ thể, tập trung vào các ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh của dịch COVID-19, bên cạnh đó là các DNTN, DNNVV. Sử dụng hiệu quả Quỹ phát triển DNNVV để tạo điều kiện cho DNNVV có nguồn tài chính để vượt qua khó khăn, phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Báo cáo Đề dẫn thảo luận Gói cứu trợ lần 2 nhằm kịp thời khắc phục khó khăn, duy trì sản xuất - kinh doanh, đảm bảo ổn định xã hội trong tình hình hiện nay. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019, NXB Thống kê, Hà Nội. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 668 3. Chương trình Nghiên cứu Chiến lược Mekong - Trung Quốc (MCSS) (2020), Báo cáo dệt may Việt Nam: Tác động của COVID-19 và xa hơn nữa. 4. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2020. 5. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá tác động của dịch COVID-19 đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 6. Tổng cục Thống kê (2019), Điều tra doanh nghiệp 2019. 7. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (2020), Báo cáo định kỳ 6 tháng đầu năm 2020: Triển vọng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2020 trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và một số cảnh báo.
File đính kèm:
- thuc_trang_phat_trien_doanh_nghiep_tu_nhan_va_cac_chinh_sach.pdf