Thực trạng công tác tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa cộng đồng ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa
Miền núi xứ Thanh với 11 huyện là khu vực rộng lớn chiếm ¾ diện tích toàn
tỉnh và 1/3 dân số toàn tỉnh với 7 dân tộc thiểu số sinh sống; mật độ dân cư khá thưa thớt; đời
sống kinh tế còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí đang còn hạn chế. Với những đặc trưng
riêng trong các phong tục, tập quán, lễ hội, dân ca, trò chơi. ở các huyện miền núi phong
phú. Trong những năm gần đây hoạt động văn hóa cộng đồng này đã được quan tâm tuy
nhiên chưa đem lại hiệu quả cao.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng công tác tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa cộng đồng ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng công tác tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa cộng đồng ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa
Lễ hội đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ, đồng thời cổ vũ cho các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao ở miền núi ngày phát triển. Những năm qua, các huyện miền núi đã rất nhiệt tình, sôi nổi trong công tác tập luyện và mang đến cho lễ hội những nhân tố mới, chất lượng phù hợp với tiêu chí các nội dung thi đấu, nhất là các nội dung liên quan đến văn hóa, lễ hội mang đậm bản sắc truyền thống của đồng bào trên toàn tỉnh. Lễ hội được xem là sự kiện chung quan trọng của đồng bào vùng cao, có tác động và tạo sự lan tỏa rộng khắp, toàn 91 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI diện trong cộng đồng. Đây cũng là dịp tập hợp mọi tầng lớp nhân dân miền núi tham gia hoạt động văn hóa - thể thao ý nghĩa, góp phần rèn luyện và nâng cao sức khỏe, cũng như giới thiệu, quảng bá, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc trong cộng đồng các huyện miền núi của tỉnh Thanh. 3.3. Tổ chức, quản lý hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa cộng đồng Hàng năm, Ban Thường vụ huyện ủy các huyện miền núi đã chỉ đạo tất cả các ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và địa phương xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Chỉ thị 27. Một số địa phương đã xây dựng và ban hành các văn bản, đề án lành mạnh hóa việc cưới, việc tang, lễ hội gắn với xây dựng làng, bản văn hóa. Đồng thời, các huyện đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa gắn với việc thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phong trào xây dựng thôn, làng, cơ quan, đơn vị văn hóa... Ngoài ra, phòng Văn hóa - Thông tin đã xây dựng kế hoạch cụ thể theo từng giai đoạn để nhân dân triển khai; phối hợp với phòng Tư pháp hướng dẫn các địa phương xây dựng và chỉnh sửa quy ước, hương ước thôn, bản phù hợp với tiêu chí xây dựng nông thôn mới; lấy các nội quy làm cơ sở tiêu chuẩn bình xét các danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa; tổ chức cho nhân dân đăng ký, ký cam kết thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nhờ đó, hình thành môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế của mỗi gia đình và các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động, việc cưới đã được tổ chức văn minh, lịch sự, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của từng gia đình; giảm tình trạng tảo hôn, ép cưới. Nam nữ đều tự nguyện kết hôn, cùng nhau thực hiện tốt Luật Hôn nhân gia đình. Một số hủ tục lạc hậu, nghi thức thách cưới rườm rà đã được loại bỏ, người dân tự giác tổ chức cưới lành mạnh không ăn uống linh đình, mở loa đài quá công suất, đơn giản nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc. Một số vùng đồng bào dân tộc như Mường - Dao đã bỏ hẳn lễ thách cưới, không tổ chức ăn uống dài ngày gây lãng phí thời gian và tiền của. Điển hình như xã Cẩm Phú, Cẩm Bình, Cẩm Quý, Cẩm Châu, Cẩm Tâm trước đây dân tộc Mường từ khi ăn hỏi đến khi thách cưới phải sắm đủ lễ vật cho nhà gái (trị giá ước tính hàng chục triệu đồng) nay chỉ còn khoảng vài trăm ngàn đồng cho việc sắm lễ vật, các thủ tục gọn nhẹ không còn rườm rà như trước. Cẩm Vân đã triển khai khắp các thôn việc không tổ chức ăn uống đông người, không hút thuốc lá tại các đám cưới, nhiều thôn đám cưới được tổ chức theo nếp sống mới tại nhà văn hoá thôn do đoàn Thanh niên đứng ra tổ chức. Về tổ chức lễ hội được thực hiện theo hướng vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong lễ hội chú trọng phần lễ nhằm tôn vinh các anh hùng dân tộc, thành hoàng làng, qua đó giáo dục truyền thống đoàn kết, xây dựng, bảo vệ đất nước cho nhân dân. Phần hội được tổ chức vui tươi, lành mạnh, kết hợp biểu diễn văn hóa, văn nghệ với tổ chức các trò chơi dân gian, thi đấu các môn thể thao, như: kéo co, đẩy gậy, ném còn, chơi đu...; không có hiện tượng lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan, bói toán. Để phong trào thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có sức lan tỏa, thời gian tới các huyện miền núi tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm tạo sự 92 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI đồng thuận trong nhân dân về việc thực hiện nếp sống mới; sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước làng về nếp sống văn hóa nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi người dân; đồng thời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Cùng với đó tập trung chỉ đạo, triển khai các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa; cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa. Các địa phương, thôn, bản cụ thể hóa nội dung tổ chức tang ma theo nếp sống mới trong quy ước, hương ước xây dựng làng, bản văn hóa, gia đình văn hóa. Do vậy, đã chuyển hóa nhận thức thành hành động và đạt được kết quả bước đầu. Đối với việc tang, các hủ tục được xóa bỏ triệt để, không còn tình trạng tổ chức ăn uống linh đình, gọi hồn, bắt vía, mở trống kèn quá công suất, quá giờ quy định, khóc mướn, rải tiền, vàng mã trên đường đi. Tiêu biểu như xã Lương Sơn, trước đây mỗi khi gia đình nào có người mất thì cả làng đến ăn cỗ linh đình trong 3 ngày, tình trạng khóc mướn, rải vàng mã diễn ra khá phổ biến. Nhưng nhờ cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể đẩy mạnh tuyên truyền, nên nhiều năm nay nhân dân đã tự giác tổ chức đám tang theo hình thức văn minh, tiết kiệm. Trong giai đoạn 2016 - 2020, mục tiêu là 100% số thôn, bản hoàn thành việc xây dựng nghĩa trang tập trung, có đường giao thông từ bản ra nghĩa trang, đám tang của đồng bào Mông thực hiện đúng quy định tại Thông tư 04/2011/TT-BVHTTDL và 100% số bản đạt danh hiệu bản văn hóa, gia đình văn hóa. Với nguồn kinh phí hơn 400 triệu đồng chủ yếu phân bổ cho công tác tuyên truyền cho nên khả năng nhân rộng thực hiện tang lễ theo nếp sống mới gặp khó khăn. Đáng nói là, việc không còn nguồn hỗ trợ gia đình có người quá cố mua quan tài và hỗ trợ 41 bản quy hoạch đất xây dựng, hoàn chỉnh nghĩa trang cho nên tục không quàn người quá cố vào quan tài, hung táng phân tán vẫn diễn ra ở nhiều bản có các dòng họ, số đông đồng bào Mông sinh sống ở vùng thượng du Thanh Hóa. Trong tổ chức tang lễ, số lượng đám tang thực hiện hỏa táng đang ngày càng tăng, hiện chiếm khoảng 10%. Năm 2016, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích sử dụng hình thức hỏa táng trên địa bàn tỉnh, nhờ đó hình thức hỏa táng ngày càng được các gia đình lựa chọn nhiều hơn. Các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong việc tang ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng giảm đáng kể, tiêu biểu là ở các huyện Quan Sơn, Mường Lát... nhất là ở vùng đồng bào dân tộc Mông, với đề án “Tuyên truyền thực hiện nếp sống văn hóa trong tang lễ vùng đồng bào dân tộc Mông tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020”. Có thể nói, những kết quả trong việc thực hiện nếp sống văn hoá, văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn một số huyện miền núi thời gian qua rất đáng ghi nhận. Với sự vào cuộc tích cực của các xã, thị trấn, sự tham gia ủng hộ của người dân, việc thực hiện nếp sống văn hoá, văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội đã đi vào chiều sâu, xây dựng đời sống tinh thần tốt đẹp hơn trong cộng đồng dân cư, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ở địa phương phát triển. Để việc thực hiện nếp sống văn hoá, văn minh ngày càng lan toả, tạo sự chuyển biến thực chất, rõ nét hơn trong các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục xây dựng chuẩn mực về nếp sống văn hoá, văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội tại thôn (làng, bản, khu phố), tổ dân và trong cộng đồng dân cư trên địa bàn toàn 11 huyện miền núi. 93 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 3.4. Tổ chức, quản lý các thiết chế văn hóa cơ sở Hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp các ngành chức năng của tỉnh thường xuyên tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên môn, định hướng nội dung nhằm không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của thiết chế văn hóa xã. Ở cấp huyện, Trung tâm Văn hóa Thông tin các huyện đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa thông tin phong phú, quy mô hoành tráng phục vụ nhân dân vào những dịp lễ hội, mừng Đảng, mừng Xuân, kỷ niệm các ngày lễ lớn. Bởi vậy chất lượng phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao ở cơ sở từng bước được nâng lên. Từ ngày xây dựng nông thôn mới, cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, xã, nhân dân cùng chung tay để xây dựng lại hệ thống thiết chế văn hóa đồng bộ, vừa có chỗ sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tổ chức hội họp dân, vừa có sân bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông... cho thanh niên, người cao tuổi, các cháu thiếu nhi vui chơi, giải trí. Những hoạt động này đã giúp cho người dân thêm gần gũi, gắn bó, tình làng, nghĩa xóm thêm bền chặt. Một trong những hiệu quả rõ nét là hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa truyền thống tại một số địa phương đã vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh cho nhân dân, vừa góp phần giáo dục truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng, nâng cao ý thức bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì vẫn còn không ít nhà văn hóa hoạt động kém hiệu quả, hoặc xây rồi bỏ không, thậm chí có thiết chế văn hóa nhưng lại không có trang thiết bị Một số xã không còn mặn mà, quan tâm xây nhà văn hóa. Các xã đạt chuẩn nông thôn mới đều có đầy đủ các công trình văn hóa theo quy định. Ngoài việc tu sửa, cải tạo, mở rộng khuôn viên, một số địa phương còn đầu tư xây mới các công trình. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động lại không cao như kết quả đầu tư. Mặc dù, trung tâm văn hóa xã được đầu tư khá hoành tráng và quy mô nhưng hầu như số lần được sử dụng rất ít, chủ yếu chỉ mở cửa khi tổ chức các sự kiện lớn của xã như đại hội thể dục thể thao và một vài hoạt động khác... còn hầu như chỉ đóng cửa cả ngày. Nhà văn hóa thôn ở các xã đạt chuẩn nông thôn mới cơ bản đã đáp ứng được về diện tích cũng như trang thiết bị nhưng đa số chỉ dùng để hội họp, rất ít khi tổ chức các hoạt động khác. Nhiều nhà văn hóa có tủ sách, báo, song cũng không thu hút được người dân đến mượn. Hiện nay, cái khó khăn lớn nhất trong hoạt động của nhà văn hóa cộng đồng là nguồn lực tài chính. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm đi công năng của nhà văn hóa cộng đồng cũng như kéo theo một loạt hệ lụy, yếu kém khác. Do vậy, cần thiết phải xây dựng và ban hành một nghị quyết chuyên đề về nhà văn hóa cộng đồng; trong đó cần bảo đảm các nội dung: quan điểm sử dụng, kinh phí đầu tư xây dựng, kinh phí hoạt động thường xuyên được phân bổ hằng năm và kinh phí phụ cấp cho ban chủ nhiệm, công tác tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho ban chủ nhiệm và các cộng tác viên của nhà văn hóa cộng đồng... Các thiết chế văn hóa “có vỏ, rỗng ruột”, nếu không kịp thời tìm được lời giải thì bài toán hoạt động không hiệu quả của hệ thống này sẽ vẫn tồn tại như những thách thức. Nhấn mạnh thiết chế văn hóa là một chỉnh thể hội tụ đầy đủ bốn yếu tố: Cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí, chỉ riêng ngôi nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ 94 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI để gọi là thiết chế văn hóa. Yếu kém ở một khâu cũng dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong hoạt động của mỗi thiết chế văn hóa nói riêng và toàn hệ thống nói chung. Thực tiễn, hoạt động văn hóa cộng đồng các dân tộc miền núi Thanh Hóa chỉ diễn ra tương đối đều đặn ở những trung tâm huyện lỵ, và một vài địa phương hội đủ các điều kiện: tài chính, nhân sự và sự ủng hộ của cộng đồng. Còn lại, đa phần hoạt động văn hóa cộng đồng đang ngày càng “lép vế” trước các hoạt động kinh doanh văn hóa của các hộ gia đình tư nhân. Đa phần các địa phương chưa tổ chức được những hoạt động văn hóa cộng đồng có giá trị tinh thần đúng nghĩa, vắng bóng các khu vui chơi, sinh hoạt tập thể, nhất là các hoạt động vui chơi, sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu niên. Việc tận dụng và phát huy công dụng của nhà văn hóa hay các trung tâm học tập cộng đồng chưa thực sự hiệu quả. Nhiều địa phương có cơ sở khang trang cũng khó có thể tổ chức các hoạt động bởi thiếu nhân sự, kinh phí và một số hoạt động lễ hội truyền thống có nguy cơ bị mai một hoặc biến tướng, gây bức xúc trước dư luận xã hội. 4. Kết luận Trong bối cảnh các hoạt động văn hóa cộng đồng dân tộc miền núi Thanh Hóa luôn đóng vai trò quan trọng cần có những giải pháp tổ chức phù hợp và các phương thức quản lý hữu hiệu. Bởi hoạt động văn hóa cộng đồng chính là sợi dây mềm dẻo, linh hoạt, bền chặt để gắn kết con người với con người; con người với cộng đồng; cộng đồng với cộng đồng; cộng đồng với quốc gia dân tộc, tạo nên một tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng tồn tại bền chặt hơn. Hoạt động văn hóa cộng đồng tạo ra môi trường cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh cả thể chất lẫn tâm hồn. Mỗi cá nhân sẽ sống, làm việc vì cộng đồng, vì sự tiến bộ xã hội nhiều hơn. Tuy nhiên, đây là khu vực còn rất nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống văn hóa, giáo dục, y tế và trình độ của người dân có nhiều hạn chế và cũng là những địa bàn khá phong phú về loại hình hoạt động văn hóa cộng đồng. Vì vậy, việc tổ chức cũng như quản lý các hoạt động văn hóa cộng đồng để bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc và bảo đảm an toàn xã hội ở những vùng như vậy là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài. Tài liệu tham khảo [1]. Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa (2009), Địa chí huyện Lang Chánh, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội. [2]. Nguyễn Kim Liên (2008), Giáo trình phát triển cộng đồng, Nxb Lao động Xã hội. [3]. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa (2000), Địa chí Thanh Hóa (Lịch sử và Địa lý), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [4]. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí Thanh Hóa (Văn hóa - Xã hội), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [5]. Hoàng Minh Tường (2009), Văn hóa dân gian dân tộc Thổ ở làng Sẹt, Hội Văn hóa Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Chi hội Thanh Hóa phát hành. [6]. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 95 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI THE CURRENT SITUATION OF ORGANIZING AND MANAGING COMMUNITY CULTURAL ACTIVITIES IN MOUNTAINOUS DISTRICTS OF THANH HOA PROVINCE Assoc. Prof. Dr. Nguyen Thi Thuy Nguyen Thi Thuy, M.A Abstract: The eleven mountainous districts in Thanh Hoa has formed a large area accounting for a quarter of the total province and one third of the provincial population in which seven ethnic minorities occupy. The population density is quite sparse. The economic life still faces many difficulties. The intellectual level is limited. With specific characteristics in the customs, festivals, folk songs, games... community cultural activities in the mountainous districts are very rich. However, in recent years, these community cultural activities have not gained high efficiency. Keywords: organization; community culture; mountainous districts in Thanh Hoa. Người phản biện: PGS. TS Trần Văn Thức (ngày nhận bài 08/8/2019; ngày gửi phản biện 10/8/2019; ngày duyệt đăng 30/9/2019). 96
File đính kèm:
- thuc_trang_cong_tac_to_chuc_quan_ly_hoat_dong_van_hoa_cong_d.pdf