Thực tiễn và nhận thức mang tính quy luật trong xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã trải qua một quá trình nhận thức,
phát triển cả về lý luận lẫn thực hiện trong thực tiễn từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn, sâu
sắc và hoàn thiện hơn. Đến nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã
từng bước được hoàn thiện, có nhiều đặc điểm theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập theo thông lệ
quốc tế. Tuy nhiên, nhìn nhận sâu hơn có thể thấy nổi lên một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
Trên cơ sở lý thuyết về kinh tế thị trường đồng thời tổng kết lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, bài viết nhằm
cung cấp tài liệu tham khảo và một số nhận thức mang tính quy luật cho Việt Nam trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực tiễn và nhận thức mang tính quy luật trong xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
c phân bổ nguồn lực dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khiến cho hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu quy luật giá trị, thích ứng với sự thay đổi của quan hệ cung cầu. Thông qua chức năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế cạnh tranh để nguồn lực được phân bổ đến các khâu có hiệu quả kinh tế cao, đồng thời đem đến áp lực và động lực cho doanh nghiệp. Như vậy, Đại hội XIII đã có bước đột phá về tư duy về KTTT, coi đó là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước, đi lên CNXH. Đến Đại hội IX mô hình kinh tế được khẳng định “Phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam” [4]. Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội VII, VIII. Đại hội X nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta và đề ra nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN”, "Phát triển nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế" [5]. Đại hội XI thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, trong đó coi “Hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính”[6] là một trong ba đột phá chiến lược. Đại hội XI tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu giữ vững định hướng XHCN của nền KTTT và nêu lên những quan điểm mới. Đại hội nêu rõ: “Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là một hình thái KTTT vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH” [6]. Đại hội XII khẳng định “Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa” là một nhiệm vụ tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016 - 2020. Điều này cho thấy Đảng đã nhận thấy và tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc tạo lập và hoàn thiện thể chế KTTT để phát triển kinh tế đất nước. Bởi vì một thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô: “Thống nhất nhận thức nền Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 16 (2021) 4 KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; ” [7]. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không khác biệt mà mang đầy đủ các đặc trưng phổ quát của KTTT như: tự do kinh doanh và cạnh tranh; mở cửa và hướng tới tự do hóa; đa dạng hóa các hình thức sở hữu; lấy quy luật giá trị và quan hệ cung cầu để xác định giá cả; coi cạnh tranh là động lực phát triển;...Vai trò của thị trường được nhấn mạnh, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và theo các ưu tiên tùy từng giai đoạn phát triển, từng mục tiêu nhưng không tách rời cơ chế thị trường, phải dựa trên nguyên tắc và quy luật thị trường để lựa chọn và phân bổ, đảm bảo hiệu quả và tối ưu trong phân bổ nguồn lực. Trải qua quá trình xây dựng lý luận và tổng kết thực tiễn có thể thấy, thể chế KTTT của nước ta đã bước đầu được thiết lập, nhưng vẫn tồn tại không ít vấn đề, chủ yếu là trật tự thị trường chưa quy phạm, các hiện tượng như dùng thủ đoạn bất chính để giành lấy lợi ích về kinh tế vẫn còn tồn tại phổ biến; thị trường các yếu tố sản xuất phát triển kém; quy tắc thị trường không thống nhất, chủ nghĩa bảo hộ bộ ngành và bảo hộ địa phương còn tồn tại nhiều; cạnh tranh thị trường không đầy đủ, gây trở ngại cho đào thải tự nhiên và điều chỉnh kết cấuNhững vấn đề này không giải quyết tốt, thể chế KTTT XHCN khó hoàn thiện. Vì vậy, vấn đề mấu chốt của xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế là làm sao xử lý tốt mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường, để thị trường phát huy vai trò mang tính quyết định trong phân bổ nguồn lực và phát huy tốt hơn nữa vai trò của chính phủ. Điều này phản ánh nhận thức của Đảng đối với quy luật KTTT định hướng XHCN đã sâu sắc hơn, đây là sáng tạo lý luận to lớn. Cải cách thể chế kinh tế cần phải lấy hoàn thiện chế độ quyền sở hữu tài sản và phân bổ thị trường hóa các yếu tố làm trọng điểm, khích lệ quyền sở hữu tài sản, các yếu tố tự do lưu động, giá cả phản ứng linh hoạt, cạnh tranh công bằng có trật tự, chủ thể vi mô có sức sống, điều tiết vĩ mô vừa phải, có hiệu quả. Những luận điểm tư tưởng về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN này đã trở thành nội dung quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế của đất nước. 3. Nhận thức mang tính quy luật về việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Trải qua 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã bước đầu xây dựng thành công thể chế KTTT định hướng XHCN, đồng thời có tác động thúc đẩy to lớn đối với phát triển lực lượng sản xuất xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đi sâu nghiên cứu quá trình thực tiễn xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT, có thể rút ra những kinh nghiệm và nhận thức mang tính quy luật sau: 3.1. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải luôn kiên trì sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Từ khi đề ra đường lối đổi mới đến việc đề ra yêu cầu tiếp tục đi sâu cải cách thể chế kinh tế, tất cả đều được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt từ Đại hội VII đến nay Đảng luôn phát huy vai trò then chốt trong việc đẩy nhanh hơn nữa việc hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Các quyết sách của Đảng được đưa ra dựa trên cơ sở thực sự cầu thị, tiến cùng thời đại, nền tảng nỗ lực tổng kết kinh nghiệm những mặt được và chưa được ở trong nước cũng như tham khảo kinh nghiệm hữu ích từ bên ngoài, dũng cảm sáng tạo lý luận và thực tiễn, chuyển trọng tâm công tác của Đảng và Nhà nước sang xây dựng kinh tế làm trung tâm, lấy xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN làm trọng điểm. 3.2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần luôn kiên trì mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Đưa ra mục tiêu cải cách thể chế kinh tế là một sáng tạo lý luận và thực tiễn lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng CNXH. Con đường xây dựng CNXH là con đường tất yếu cần trải qua để thực hiện hiện đại hóa XHCN ở Việt Nam, là con đường tất yếu để tạo ra cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân. Do vậy, việc thực hiện vận dụng, phát triển KTTT cần phải luôn kiên trì định hướng XHCN. Nói đến KTTT định hướng XHCN chính là phải kiên trì tính ưu việt về chế độ, phòng ngừa có hiệu quả các khiếm khuyết của KTTT tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, chế độ phân phối với phân phối theo lao động làm chủ thể, phát huy hơn nữa vai trò của Chính phủ, đều là những nghĩa vụ cần có của thể chế KTTT định hướng XHCN. Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 16 (2021) 5 3.3. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải kiên trì tiêu chuẩn phát triển lực lượng sản xuất và tôn trọng tinh thần đi đầu sáng tạo của quần chúng nhân dân. Kiên trì thị trường hóa theo định hướng XHCN buộc phải kiên trì tiêu chuẩn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, luôn coi trọng vấn đề là có lợi cho phát triển lực lượng sản xuất xã hội hay không, liệu có lợi cho việc tăng cường thực lực tổng hợp của đất nước hay không, liệu có lợi cho việc nâng cao mức sống của nhân dân hay không làm tiêu chuẩn để thực hiện cải cách thành công hay không. Kiên trì tiêu chuẩn phát triển lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi tôn trọng tinh thần đi đầu sáng tạo của quần chúng lao động, khuyến khích người lao động (lực lượng hàng đầu của lực lượng sản xuất) tìm tòi, sáng tạo và cải cách. Vì đột phá và phát triển trong nhận thức và thực tiễn, sự tích lũy trong từng phương diện chính là đến từ thực tiễn và trí tuệ của người lao động. Thúc đẩy đổi mới, cải cách trên bất cứ phương diện nào đều phải đứng trên lập trường của nhân dân, xuất phát từ lợi ích của nhân dân để nắm bắt và xử lý tốt các vấn đề trọng đại, hoạch định đường lối và biện pháp đổi mới, cải cách thể chế kinh tế. 3.4. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần phải luôn kiên trì sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân cùng phát triển, tăng cường phát triển chế độ sở hữu hỗn hợp. Kiên trì mục tiêu kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ thể không đồng nghĩa với tỷ trọng tuyệt đối, quy mô lớn, mà chủ đạo thể hiện ở việc định hướng tới mục tiêu tổng quát. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của sở hữu tư nhân như một động lực quan trọng của nền kinh tế trong cơ cấu nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển, không chỉ để tạo không gian về chế độ để các thành phần kinh tế có tính chất khác nhau bổ trợ lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau, cạnh tranh bình đẳng, cùng nhau phát triển mà còn giúp thành phần kinh tế công hữu và phi công hữu thông qua hình thức tổ chức về tài sản như chế độ cổ phần, chế độ hợp tác cổ phần để hình thành chế độ sở hữu hỗn hợp. 3.5. Xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải luôn kiên trì sử dụng đồng thời “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình” Xây dựng, hoàn thiện thể chế KTTT XHCN không đồng nghĩa với việc phát triển thị trường tự do, thiếu kiểm soát mà cần đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Luận điểm “Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất”[7] đã nhấn mạnh cơ chế vận hành của nền kinh tế, tôn trọng các quy luật của thị trường, khắc phục tình trạng huy động và phân bổ nguồn lực tràn lan, mang nặng ý chí chủ quan, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực. Đây là việc đề cao cả vai trò của thị trường và vai trò của Chính phủ, phải chú trọng mối quan hệ biện chứng để nỗ lực hình thành cục diện mà vai trò thị trường và vai trò Chính phủ thống nhất hữu cơ, bổ sung cho nhau, thúc đẩy lẫn nhau để thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững. Bảo đảm sự phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường, Nhà nước và doanh nghiệp, Nhà nước và dân cư trong tổ hợp: Nhà nước – thị trường – doanh nghiệp – dân cư. 3.6. Xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải luôn kiên trì phát huy vai trò của nhà doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, đảm bảo quyền tài sản của nhà đầu tư. Các loại hình doanh nghiệp phát triển là thúc đẩy thị trường hóa và phát triển nhanh kinh tế ở bình diện vi mô, nhà lãnh đạo doanh nghiệp dám nghĩ, dám làm, dám đi đầu chấp nhận rủi ro cũng chính là thúc đẩy thị trường hóa và phát triển nhanh kinh tế ở tầng trung và vĩ mô. Vì vậy, cần phải có cơ chế khuyến khích các nhà doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh mạnh dạn đổi mới, sáng tạo trong phát triển doanh nghiệp nói riêng và trong phát triển nền kinh tế nói chung. 3.7. Xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải luôn kiên trì giữ độc lập tự chủ và mở cửa toàn diện. Xây dựng CNXH nói chung và xây dựng thể chế kinh tế nói riêng phải luôn kiên trì nguyên tắc: “độc lập tự chủ” để không đánh mất những giá trị cốt lõi của đất nước trong quá trình thị trường hóa thể chế kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập, toàn cầu hóa nền kinh tế. Thực tiễn thành tựu kinh tế trong thời gian qua đã chứng minh những thành quả đó là đạt được trong điều kiện mở cửa và hội nhập của nền kinh tế. 4. Kết luận KTTT định hướng XHCN là một thể chế kinh tế, một hệ thống các lực lượng kinh tế và các chủ thể kinh tế, một nền kinh tế mở, xem đó như một thành tố cấu trúc nền tảng, nội tại của hệ thống kinh tế - xã hội, tạo thành hệ thống kinh tế - xã hội phát triển theo hướng đi lên CNXH. Một mặt, vừa khai thác tính tích cực của kinh tế thị trường; mặt khác, sử dụng vai trò của Nhà nước cũng cần thấy mặt tích cực, chủ động của Nhà nước. Do vậy, vấn Chuyên mục: Khoa học xã hội và hành vi - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 16 (2021) 6 đề cốt lõi ở Việt Nam hiện nay là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế KTTT, để đảm phát huy được tính năng động hiệu quả của nó, đồng thời cũng phải bảo đảm được tính định hướng XHCN. Về lý luận KTTT định hướng XHCN có những nét trong Chính sách kinh tế mới của Lênin, lại hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển kinh ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Thành tựu phát triển kinh tế ở Việt Nam thời gian qua đã chứng minh điều đó./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban chấp hành Trung ương khóa XII. (2020). Dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011 – 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, tr.2. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1994). Văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, tr 35. Hà Nội: Nhà xuất bản Sự thật. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, tr.72. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tr.86-88. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tr.187. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tr.106. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tr.25. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [8]. Niên giám thống kê Việt Nam qua các năm và Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội các năm trên trang website của Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Thông tin tác giả: 1. Hứa Thanh Bình - Đơn vị công tác: Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên 2. Trần Huy Ngọc - Đơn vị công tác: Trường Đại học Kinh tế & QTKD - Địa chỉ email: huyngoc.kttn@gmail.com Ngày nhận bài: 08/02/2021 Ngày nhận bản sửa: 15/03/2021 Ngày duyệt đăng: 30/03/2021
File đính kèm:
- thuc_tien_va_nhan_thuc_mang_tinh_quy_luat_trong_xay_dung_va.pdf