Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Mỗi năm người dân Lý Sơn khai thác 270.000-330.000 m3 cát san hô cho trồng tỏi và

hành dẫn đến tác động đáng kể môi trường sinh thái biển và nghiêm trọng hơn là sự xâm

thực diễn ra với cường độ lớn và tốc độ nhanh. Bên cạnh hậu quả về môi trường việc thay

đất và cát cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp ở Lý Sơn.

Năm 2000 - 2003, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi đã cho thực hiện đề tài

“Giải pháp kỹ thuật canh tác hành, tỏi trong điều kiện thổ nhưỡng ở Lý Sơn”, đã xác định

được giải pháp thay vì bổ sung đất và thay cát thì sử dụng phân chuồng để bón; tuy nhiên ở

Lý Sơn, lượng phân chuồng từ chăn nuôi gia súc là không đáng kể. Năm 2009 – 2014, đề tài

“Phục tráng giống tỏi Lý Sơn” và dự án “Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ sản xuất tỏi

ở huyện Lý Sơn theo hướng bền vững” đã đưa ra được các giải pháp như dùng giống phục

tráng, sử dụng hệ thống tưới phun mưa, giảm mật độ trồng, quản lý dịch hại tổng hợp theo

IPM, bón phân cân đối , làm tăng năng suất từ 3,26 – 27,5% so với sản xuất đại trà. Song

vẫn chưa đưa ra được các giải pháp tối ưu để thay thế tập quán canh tác có bổ sung đất bazan

và thay cát san hô của người dân ở huyện Lý Sơn.

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 1

Trang 1

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 2

Trang 2

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 3

Trang 3

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 4

Trang 4

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 5

Trang 5

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 6

Trang 6

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát) trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 2460
Bạn đang xem tài liệu "Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát)

Thực nghiệm các giải pháp kỹ thuật trong canh tác tỏi ở huyện đảo Lý Sơn tỉnh Quảng Ngãi (Canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát)
 4 công thức trong 2 thời vụ dao động từ 5,76 - 7,71 tấn/ha; năng suất tỏi 
khô trong 2 thời vụ dao động từ 4,22 - 6,03 tấn/ha. 
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến chất lượng 
tỏi Lý Sơn: Hàm lượng I ốt, Protein, tinh dầu và alixin giữa các công thức có sự sai khác. 
Ở công thức 2 khi giữ nguyên lớp cát cũ để canh tác thì tất cả 4 chỉ tiêu đều cho hàm lượng 
thấp hơn đáng kể so với công thức đối chứng (canh tác có bổ sung đất và thay cát) và công 
thức 3, 4 (canh tác không bổ sung đất, không thay cát); ở công thức 3 cho tất cả 4 chỉ tiêu 
đều đạt hàm lượng tương đương so với công thức 1 (đối chứng theo phương thức canh tác 
có bổ sung đất đỏ bazan và thay cát san hô của người dân).
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến khả năng 
chống chịu một số sâu bệnh hại chính của cây tỏi Lý Sơn: Ở các công thức không bổ sung 
đất và không thay cát (công thức 3 và 4), khi đất được cày xới kỹ, bổ sung đầy đủ phân bón 
phân hữu cơ, đa, trung và vi lượng kết hợp với việc che phủ luống bằng thân xác thực vật đã 
làm giảm một số bệnh hại chính so với phương thức canh tác truyền thống của người dân.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến hiệu quả kinh 
tế của cây tỏi Lý Sơn: Các công thức cho lãi từ 122.600.000 - 142.400.000 đồng/ha vụ Đông 
xuân 2015 - 2016 và 185.600.000 - 224.300.000 đồng/ha vụ Đông xuân 2016 - 2017.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến tính chất đất 
46
KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
trồng tỏi trong cơ cấu Tỏi - Hành – Hành: Tính chất đất ở các công thức trước thí nghiệm và 
sau thí nghiệm có sự thay đổi ở đa số các chỉ tiêu.
2.1.2. Thực nghiệm các giải pháp canh tác tỏi không bổ sung đất và không thay cát 
trên cây hành
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến sinh trưởng 
trên cây hành: Đã ảnh hưởng tích cực đến sinh trưởng của cây hành ở cả vụ Xuân hè và Hè 
thu trong năm 2016 và 2017 như số lá, chiều dài lá, đường kính lá và thời gian sinh trưởng ở 
2 công thức thực nghiệm theo giải pháp (không bổ sung đất, không thay cát) đã có sự khác 
biệt so với đối chứng. Vụ Hè thu, khả năng sinh trưởng của cây hành giảm hơn so với vụ 
Xuân Hè.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến các yếu tố 
cấu thành năng suất và năng suất cây hành: Trong năm 2016 và 2017, vụ Xuân hè, các yếu 
tố cấu thành năng suất và năng suất hành đạt cao hơn so với vụ Hè Thu; số thân giả/m2 dao 
động từ 195,7 - 236,8 thân. Đường kính củ dao động giữa các công thức qua 4 thời vụ từ 
2,0 - 2,9 cm, vụ Xuân hè đạt cao hơn vụ Hè thu và năm 2017 đạt cao hơn năm 2016. Khối 
lượng củ dao động từ 7,2 - 12,5 g, vụ Xuân hè đạt cao hơn vụ Hè thu. Năng suất thực thu ở 
4 công thức qua 4 vụ dao động từ 7,33 - 12,66 tấn/ha, vụ Xuân hè đạt từ 9,86 -12,66 tấn/ha, 
cao hơn vụ Hè thu từ 0,62 - 5,33 tấn/ha.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến khả năng 
chống chịu một số sâu bệnh chính trên cây hành: Bọ trĩ ở tất cả các công thức đều ghi nhận 
mức độ xuất hiện là như nhau trong cùng 1 thời vụ. Với bệnh thối nhũn, năm 2016 tỷ lệ cây 
bị bệnh nặng hơn so với năm 2017. Bệnh khô đầu lá xuất hiện với tỷ lệ từ 10,6 - 16,8% số 
cây bị hại. Bệnh sương mai chỉ thấy xuất hiện trong vụ Xuân hè với tỷ lệ bị hại từ 3,0 - 5,7%.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến hiệu quả kinh 
tế của cây hành: Các công thức cho lãi từ 126.010.000 - 151.330.000 đồng/ha vụ Xuân hè 
và 51.250.000 - 69.570.000 đồng/ha vụ Hè thu.
2.2. Thực nghiệm các giải pháp canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát trong 
cơ cấu Tỏi + Lạc xen ngô
2.2.1. Thực nghiệm các giải pháp canh tác tỏi không bổ sung đất và không thay cát trên 
cây tỏi Lý Sơn vụ Đông Xuân 2015-2016 và Đông Xuân 2016-2017:
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát đến sinh 
trưởng trên cây tỏi Lý Sơn: Việc không bổ sung đất và không thay cát đã ảnh hưởng đến sinh 
trưởng và hình thái của cây tỏi ở tất cả các chỉ tiêu về chiều cao thân giả, số lá/cây, chiều dài 
lá, chiều rộng lá, đường kính thân giả và thời gian sinh trưởng. Số lá/cây giữa các công thức 
không có sự chênh lệch ở cả 2 thời vụ (vụ Đông xuân năm 2015 - 2016, số lá/cây đạt 13 lá, 
vụ Đông xuân 2016 - 2017 đạt trung bình 15 lá/cây). Chiều cao thân giả ở các công thức 
trong cùng mùa vụ không có sự biến động lớn nhưng giữa 2 vụ Đông xuân 2015 - 2016 và 
2016 -2017 có sự chênh lệch khá lớn (vụ Đông xuân 2015-2016 động từ 23,6 - 24,8 cm, vụ 
Đông xuân 2016 - 2017 đạt từ 27,1 - 30,2 cm); đường kính gốc thân giả ở cả 4 công thức có 
sự sai khác không đáng kể, dao động từ 2,2 - 2,5 cm. Chiều rộng lá dao động qua 2 thời vụ 
từ 0,9-1,5cm, trong cùng thời vụ thì giữa các công thức thực nghiệm không có sự sai khác 
đáng kể so với đối chứng. Thời gian thu hoạch dài hơn so với đối chứng từ 1 - 6 ngày.
47
KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến các yếu tố 
cấu thành năng suất và năng suất của cây tỏi: Số cây thu hoạch/ô ở 2 thời vụ dao động trong 
khoảng từ 70,1-79,6 cây. Số tép/củ dao động giữa các công thức và ở 2 thời vụ từ 13,8 - 23,6 
tép/củ. Đường kính củ biến động trong khoảng 2,1 - 2,6cm. Khối lượng củ tươi và khô đạt 
tương đương. Năng suất củ tươi ở 4 công thức trong 2 thời vụ dao động từ 5,73 - 7,65 tấn/
ha. Năng suất tỏi khô trong 2 thời vụ dao động từ 4,07 - 5,92 tấn/ha.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến chất lượng 
tỏi Lý Sơn: Hàm lượng I ốt, Protein, tinh dầu và alixin giữa các công thức có sự sai khác. Ở 
công thức 2 khi giữ nguyên lớp cát cũ để canh tác thì 3/4 chỉ tiêu (trừ hàm lượng I ốt) đều 
cho hàm lượng thấp hơn so với công thức đối chứng (canh tác có bổ sung đất và thay cát) và 
công thức 3, 4 (canh tác không bổ sung đất, không thay cát), nhưng tỷ lệ thấp hơn là không 
đáng kể so với ở cơ cấu Tỏi - Hành - Hành. Ở công thức 3 cho tất cả 4 chỉ tiêu đều đạt hàm 
lượng tương đương so với công thức 1 (đối chứng theo phương thức canh tác có bổ sung đất 
đỏ bazan và thay cát san hô của người dân).
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến khả năng 
chống chịu một số sâu bệnh hại chính của cây tỏi Lý Sơn: Ở các công thức canh tác theo 
phương thức không bổ sung đất và không thay cát (công thức 3 và 4) đã làm giảm một số 
bệnh hại chính so với phương thức canh tác truyền thống của người dân.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến hiệu quả kinh 
tế của cây tỏi Lý Sơn: Các công thức cho lãi từ 73.300.000 - 133.300.000 đồng/ha vụ Đông 
xuân 2015 - 2016 và 134.200.000 - 216.600.000 đồng/ha vụ Đông xuân 2016 – 2017.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến tính chất đất 
trồng tỏi Lý Sơn trong cơ cấu Tỏi - Lạc xen ngô: Tính chất đất ở các giải pháp canh tác khác 
nhau trước thí nghiệm và sau thí nghiệm có sự thay đổi ở đa số các chỉ tiêu.
 2.2.2. Ảnh hưởng của nền đất không bổ sung đất bazan và không thay cát san hô sau 
vụ canh tác tỏi đến cây ngô và lạc trồng xen vụ Xuân hè 2016 và 2017
* Đối với cây lạc:
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất đỏ bzan, không thay cát san hô 
đến khả năng sinh trưởng của cây lạc vụ Xuân hè: Chiều cao cây biến động từ 40,2-45,8cm, 
thời gian sinh trưởng biến động trong khoảng 103-112.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất đỏ bazan, không thay cát san hô 
đến các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của cây lạc vụ Xuân hè: Số quả/cây dao 
động từ 11,6-13,2 quả/cây; số quả chắc/cây cao nhất ở công thức 3 (9,7 - 10,5 quả/cây) và 
thấp nhất ở công thức 2 (8,4-8,5 quả/cây); khối lượng 100 quả dao động từ 100,5 - 115,7 g; 
khối lượng 100 hạt và tỷ lệ nhân đạt cao nhất ở công thức 3, khối lượng 100 hạt đạt từ 42,8-
44,9 g, tỷ lệ nhân đạt từ 74,7 - 75,6%; năng suất thực thu ở 4 công thức qua 2 vụ có sự biến 
động khá lớn từ 19,80 -25,14 tạ/ha.
Ảnh hưởng của giải pháp canh tác không bổ sung đất, không thay cát đến khả năng 
chống chịu một số sâu bệnh hại chính của cây lạc vụ Xuân hè: Với sâu hại, sâu xám và sâu 
xanh ở 4 công thức qua 2 vụ xuất hiện với mật độ thấp và mức độ chênh lệch mật độ sâu 
hại giữa 4 công thức không đáng kể. Với bệnh hại, 4 loại bệnh theo dõi đều cho thấy ở công 
48
KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
thức 3 và 4 đều bị nhiễm nhẹ hơn so với công thức đối chứng và công thức giữ lại lớp cát cũ.
* Đối với cây ngô: 
Canh tác không bổ sung đất và không thay cát ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của 
cây ngô ở vụ Xuân hè 2016 và 2017, chiều cao cây dao động 190,4 - 200,2 cm, thời gian 
sinh trưởng dao động 106 -111 ngày; ảnh hưởng đáng kể đến các yếu tố cấu thành năng suất 
và năng suất của cây ngô so với phương pháp canh tác truyền thống của người dân, năng 
suất thực thu dao động từ 12,72 - 17,53 tạ/ha; lợi nhuận từ 12.286.000 - 26.989.000 đồng/ha.
2.3. Nghiên cứu xác định nguyên tố dinh dưỡng N, P, K thiếu hụt trong đất trồng tỏi 
Lý Sơn và xây dựng lượng phân bón thích hợp cho vụ tỏi Đông xuân
2.3.1. Ảnh hưởng của thiếu hụt nguyên tố dinh dưỡng N, P, K đến các yếu tố cấu thành 
năng suất và năng suất của cây tỏi ở Vụ Đông Xuân 2016-2017: 
Ở các công thức bón phân khác nhau thì số cây thu được/m2 cũng khác nhau và dao 
động từ 74,2-77,6 cây/m2. Số tép/củ lại đạt thấp nhất ở công thức bón thiếu lân (-P) đạt 19,2 
tép/củ, công thức bón thiếu đạm (-N) đạt 20,4, cao nhất là ở công thức bón thiếu kali (-K) 
và bón đầy đủ NPK đạt từ 21,2 - 21,7 tép/củ. Đường kính củ dao động từ 2,2-2,6 cm. Khối 
lượng củ tươi dao động từ 7,9 - 10,3 g; khối lượng củ khô đạt thấp nhất khi bón thiếu kali 
(-K) chỉ đạt 5,1 g, cao nhất khi bón đầy đủ NPK đạt 7,8 g. Năng suất thực thu củ tươi ở 4 
công thức dao động từ 5,24 - 7,72 tấn/ha. Năng suất thực thu củ khô, công thức bón thiếu 
kali (-K) đạt 3,71 tấn/ha, thiếu đạm (-N) đạt 4,11 tấn/ha và bón thiếu lân (-P) đạt 5,08 tấn/ha.
2.3.2. Xác định lượng phân bón thích hợp cho cây tỏi Lý Sơn dựa vào kỹ thuật ô khuyết 
ở vụ Đông Xuân 2016-2017: 
Xác định mức năng suất mục tiêu, năng suất mục tiêu cần đạt được là 6,8 tấn/ha; xác 
định lượng dinh dưỡng N, P, K do đất cung cấp dựa vào năng suất ở các ô khuyết (-N,-P, 
-K), theo năng suất đạt được ở từng ô thiếu hụt thì 1 ha đất đã cung cấp lượng dinh dưỡng 
cho cây tỏi là 60 kg N, 13 kg PO
5
 và 41 kg K
2
O; xác định lượng dinh dưỡng để đạt năng suất 
mục tiêu, lượng dinh dưỡng mà 1ha đất trồng tỏi ở Lý Sơn có thể cung cấp thì để đạt được 
năng suất mục tiêu 6,8 tấn/ha ở vụ Đông xuân, cây tỏi Lý Sơn cần hấp thu 98,6 kg N, 17,0 
kg P
2
O
5
 và 74,8 kg K
2
O; xác định lượng phân cần bón, để đạt được năng suất 6,8 tấn/ha thì 
cần bổ sung lượng dinh dưỡng bón vào 1ha đất là 96,5 kg N + 10,0 kg P
2
O
5
 + 84,5 kg K
2
O.
3.3. Xây dựng mô hình canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát
Mô hình canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát được xây dựng ở 2 xã An Hải 
và An Vĩnh trong vụ Đông xuân 2016 - 2017 với quy mô là 5.000 m2 (2.500 m2/điểm). 
 Kết quả cho thấy: Tỷ lệ bệnh hại ở mô hình thực nghiệm đã giảm so với mô hình đối 
chứng. Bệnh thỗi nhũn giảm 2,1%, bệnh khô đầu lá giảm 4% và đặc biệt bệnh sương mai đã 
giảm 9,3%. Số cây thu hoạch/m2 ở mô hình thực nghiệm đạt 77,6 cây, nhưng ở mô hình đối 
chứng chỉ đạt 75,4 cây. Số tép/củ giữa 2 mô hình không có sự khác biệt nhưng đường kính 
củ khối lượng củ thì có sự khác biệt. Kích thước củ ở mô hình đối chứng đạt cao hơn so với 
mô hình thực nghiệm 0,2cm, nhưng ngược lại khối lượng củ tươi và củ khô ở mô hình đối 
chứng lại thấp hơn so với mô hình thực nghiệm (tủ tươi 0,9g/củ và củ khô 0,8 g/củ). 
Sau khi hạch toán hiệu quả kinh tế thì ở mô hình thực nghiệm cho lãi thuần đạt 219,4 
triệu đồng/ha, cao hơn so với mô hình đối chứng là 20,7 triệu đồng/ha và tỷ suất lãi so với 
49
KỶ YẾU NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
vốn đầu tư ở mô hình thực nghiệm đạt 1,11, trong khi đó ở mô hình đối chứng chỉ đạt 0,99.
IV. KẾT LUẬN 
Đối với hiện trạng canh tác tỏi ở Lý Sơn: Tình trạng thiếu nước ngày càng nghiêm 
trọng, đặc biệt là những vùng có địa hình cao, việc bổ sung đất, thay cát làm tăng chí phí đầu 
tư và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật sử 
dụng chưa hợp lý nên chất lượng sản phẩm còn thấp, trong đất canh tác tồn tại các vi sinh 
vật gây bệnh.
Kết quả thực nghiệm các giải pháp canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát và 
xác định lượng dinh dưỡng N, P, K thiếu hụt trong đất trồng tỏi ở Lý Sơn: 
+ Thực nghiệm các giải pháp canh tác trong cơ cấu Tỏi - Hành – Hành: Đối với cây 
tỏi, trong 4 công thức thí nghiệm, công thức 3 khi trồng tỏi theo phương thức không bổ sung 
đất, loại bỏ lớp cát cũ, cày xới lớp đất bazan từ vụ trước + che phủ thân xác thực vật (đã xử 
lý) + phân vô cơ + phân vi sinh FITO HUMIC + phun phân bón lá Rong biển SEAWEED – 
95% không làm sụt giảm năng suất và chất lượng so với phương thức đối chứng, hiệu quả 
kinh tế tăng thêm từ 13.700.000 - 31.900.000 đồng/ha. Đối với cây hành, giải pháp canh tác 
không bổ sung đất, không thay cát (công thức 3) đảm bảo năng suất hành không giảm so 
với phương thức đối chứng của người dân, hiệu quả kinh tế cao hơn 15.800.000 đồng/ha vụ 
Xuân hè và 12.300.000 đồng/ha vụ Hè thu.
+ Thực nghiệm các giải pháp canh tác trong cơ cấu Tỏi - Lạc xen ngô: Đối với cây tỏi, 
ở công thức 3 trồng tỏi theo phương thức mới không làm sụt giảm năng suất và chất lượng 
so với phương thức đối chứng, hiệu quả kinh tế tăng thêm từ 60.000.000 đồng/ha vụ Đông 
xuân 2015-2016 và 82.400.000 đồng/ha vụ Đông xuân 2016-2017. Đối với cây lạc xen 
ngô, năng suất và lợi nhuận của lạc và ngô trồng ở nền đất trồng tỏi theo phương thức mới 
(công thức 3) đạt tương đương khi trồng ở nền đất đối chứng (lạc đạt 24,42 - 25,14 tạ/ha, 
ngô đạt 17,26 - 17,53 tạ/ha), lợi nhuận từ 12.286.000 - 26.989.000 đồng/ha. Xác định thiếu 
hụt nguyên tố dinh dưỡng N, P, K, so với bón đầy đủ N, P, K thì thiếu lân ít ảnh hưởng nhất 
đến năng suất tỏi chỉ giảm so với bón đầy đủ 0,97 tấn/ha, không bón đạm giảm 1,94 tấn/ha 
và không bón kali giảm so với bón đầy đủ 2,34 tấn/ha; để đạt năng suất mục tiêu 6,8 tấn/ha 
vụ Đông xuân, cây tỏi cần bón bổ sung vào đất là 98,6 kg N, 17,0 kg P
2
O
5
 và 74,8 kg K
2
O.
Kết quả xây dựng mô hình canh tác tỏi không bổ sung đất, không thay cát: Năng suất 
ở mô hình thực nghiệm và đối chứng đạt tương đương nhau, mô hình thực nghiệm cho lãi 
thuần cao hơn đối chứng 20,7 triệu đồng/ha. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_nghiem_cac_giai_phap_ky_thuat_trong_canh_tac_toi_o_huye.pdf