Thúc đẩy liên kết để phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Trong những năm gần đây, Việt Nam đang ngày càng chủ động hội nhập
ngày càng sâu rộng với các khu vực và quốc gia trên thế giới. Việc tham gia các hiệp định
thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, nhất là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương toàn
diện và tiến bộ (CPTPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định FTA
với EU, với nhiều bên, quy mô rộng, mức độ cam kết cao, là những đột phá quan trọng của
hội nhập quốc tế toàn diện của nước ta, đem đến nhiều tác động lớn cho các ngành kinh tế,
đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến chế tạo ( CN CBCT) – vốn à ngành đang có đóng
góp lớn cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm vừa qua. Để tận d ng các cơ hội, cũng
như đẩy lùi cách thách thức từ quá trình hội nhập, th c đẩy liên kết trong sản xuất, thương
mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan trọng. Nội dung bài viết tập trung
vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt Nam thời gian vừa qua, từ
đó, đưa ra những đánh giá về cơ hội, thách thức và giải pháp của ngành CN CBCT trong quá
trình tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thúc đẩy liên kết để phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
ới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng k của các dự án đạt 12.093,1 triệu USD, chiếm 72,2% tổng vốn đăng k cấp mới. Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là FDI vào Việt Nam chủ yếu là những ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn như: may mặc, giày dép. Các doanh nghiệp (DN) FDI chủ yếu tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ yếu nhập từ nước ngoài nên giá trị gia tăng còn thấp (CIEM, 2017) và không tạo ra được mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, tính đến hết năm 2018, xuất khẩu ngành CN CBCT chiếm tới 93,2 % tổng giá trị xuất khẩu. Nhìn chung, tỷ trọng xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu bao gồm: hàng điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; giầy dép; hàng dệt may và nguyên phụ liệu của ngành dệt may; ... Bảng 3. Cơ cấu xuất khẩu theo ngành kinh tế Đơn vị: Triệu đô a Mỹ 2010 2015 2016 2017 2018 TỔNG SỐ 100 100 100 100 100 Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 7.1 4.0 4.5 4.0 3.5 Khai khoáng 9.4 2.7 1.7 1.7 1.2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 82.6 92.5 93.3 93.7 93.2 Ngành khác 0.9 1.8 0.5 0.6 2.1 Nguồn: Tổng c c Thống kê, 2019 [6] 726 Tuy nhiên, CN CBCT cũng hiện là ngành đang chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị nhập khẩu của nền kinh tế, chiếm tới 88,7% trong năm 2018. Điều này cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nhập khẩu trong hoạt động sản xuất của ngành CN CBCT. 3.2.1. Về tình hình liên kết trong ngành CN CBCT Về mối liên kết giữa DN CNHT và DN CN chính: Về cơ bản, sau hơn 30 năm phát triển, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI đang đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh. Bảng 4. Tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước của các nhà lắp ráp tại Việt Nam Lĩnh vực hạ nguồn Tỷ lệ % cung ứng trong nƣớc Xe máy 85-90% Ô tô 15-40% Sản xuất thiết bị đồng bộ 20% Sản xuất máy nông nghiệp, máy động lực 40-60% Sản xuất máy công nghiệp 40% Công nghiệp công nghệ cao 10% Nguồn: Bộ Công thương, 2017 Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp, giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất k m) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nội địa. Về sự hình thành các c m CN, c m liên kết ngành (CLKN) Trong những năm qua, một số CLKN, cụm CNĐT cũng đã tồn tại và hiện hữu một cách tự nhiên. Chẳng hạn như: KCN Thăng Long (Nội Bài, Hà Nội) với sự tập trung của nhiều DN đến từ Nhật Bản, KCN này liên kết các DN lắp ráp cơ điện tử lớn như Canon, Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng linh kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei, Santomas, Yasufuku, ...; Tại miền bắc, cụm CN bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang với sự tập trung nhiều các Tập đoàn đa quốc gia như Canon, Samsung, Nokia, LG, Panasonic, ... và nhiều doanh nghiệp vệ tinh, chủ yếu là DN FDI; trong đó, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai trò là DN chủ đạo để hình thành và phát triển các cụm ngành. Tại miền nam, hiện cũng đã bắt đầu hình thành cụm ngành công nghệ cao, đặc biệt là vi mạch điện tử và công nghệ thông tin ở TP Hồ Chí Minh; 727 cụm ngành điện tử tại Bình Dương; ... Tuy nhiên, sự tham gia của DN CNHT nội địa vẫn còn rất hạn chế, thể hiện sự liên kết yếu giữa các DN nội địa với các công ty điện tử lớn, các tập đoàn đa quốc gia. Theo Võ Trí Thành và các cộng sự, dựa theo đánh giá của Mekong Economics (2011), các hạn chế của các CLKN Việt Nam được thể hiện trên các phương diện sau: (1) Các điều kiện về cầu: mức cầu trong nước thấp (để đạt hiệu quả kinh tế nhờ quy mô), Việt Nam chưa thực sự tham gia sâu để đáp ứng cầu của khu vực và thế giới; (2) Cạnh tranh và chiến lược ngành: thiếu các doanh nghiệp trong nước có sức cạnh tranh cao, tăng trưởng năng suất thấp, các mức thuế chưa đủ khuyến khích và không hợp l ; (3) Các điều kiện về nhân tố sản xuất (thiếu nguồn cung lao động lành nghề, chất lượng giáo dục công nghệ cao còn thấp, chất lượng kém của kết cấu hạ tầng ngoài KCN, thiếu kỹ năng quản lý hiệu quả và trình độ đổi mới công nghệ...); (4) Công nghiệp hỗ trợ và các ngành hàng liên quan: thiếu vắng các nguồn cung trong nước có chất lượng và giá r , thiếu hụt thông tin giữa các nhà cung cấp và các nhà lắp ráp. Về mối liên kết giữa DN với hệ thống hiệp hội, trung tâm hỗ trợ DN: theo đánh giá của CIEM (2016)[7], chính quyền địa phương đang vận hành trung tâm hỗ trợ DN và các trung tâm khuyến công tại mỗi một tỉnh, thành phố, tuy nhiên, nhận thức của các DN về sự tồn tại của những cơ sở này có thể rất thấp. Chính vì vậy, tần suất sử dụng các cơ sở này cũng rất thấp. Điều này thể hiện tính liên kết yếu giữa DN với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ DN. 3.3. Cơ hội và thách thức Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm vừa qua, ngành CN CBCT đã có những bước phát triển nhanh chóng, đã có những đóng góp đáng kể và được coi là động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI. Tuy nhiên, thực trạng quá trình phát triển của ngành cũng cho thấy một số hạn chế lớn còn tồn tại, đặc biệt là sự liên kết yếu trong quá trình sản xuất khiến ngành CN CBCT khó có thể nâng cao giá trị gia tăng và đóng góp thực chất hơn vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Những thành tựu và hạn chế của ngành đưa đến những cơ hội và thách thức trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cụ thể là: Một số cơ hội: Thứ nhất, thúc đẩy liên kết thông qua mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu. Trong những năm vừa qua, ngành CN CBCT Việt Nam liên tục là ngành có tỷ trọng và tốc độ kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, do đó, trong bối cảnh tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với việc cắt giảm thuế ở hầu hết các mặt hàng xuống 0 %, mức độ mở cửa sâu sắc và toàn diện hơn, ngành CN CBCT tiếp tục là ngành đứng trước những cơ hội lớn của việc mở rộng và thâm nhập các thị trường. Thông qua việc thúc đẩy việc liên kết sản xuất, thương mại với các đối tác tham gia hiệp định, ngành CN CBCT có nhiều cơ hội lớn để tham gia vào 728 các chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị với các nước thành viên, trong khu vực và toàn thế giới. Đặc biệt, với cam kết mở cửa thị trường trong EVFTA sẽ giúp mở rộng hơn nữa thị trường hàng xuất khẩu, nhất là những sản phẩm mà cả hai cùng có lợi thế như nông thủy sản, đồ gỗ, dệt may, giày d p của Việt Nam, máy móc, thiết bị, ô tô, xe máy, đồ uống có cồn của EU. Thứ hai, thúc đẩy liên kết sản xuất trong nước. Khi thuế suất giảm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như: Nguyên phụ liệu dệt may, chất d o, ngô, cao su, ... sẽ giảm, tạo điều kiện hạ giá thành, giảm chi phí sản xuất hàng CN xuất khẩu. Mặt khác, việc cắt giảm thuế quan sẽ khiến hàng hóa nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là các nước EU vào Việt Nam sẽ nhiều hơn do giá thành r , mẫu mã phong phú và đa dạng, tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Để ngành sản xuất trong nước có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu thì các doanh nghiệp trong nước cần tăng cường liên kết, hợp tác sản xuất, từ đó, nâng cao được sức cạnh tranh của sản xuất trong nước. Thứ ba, thúc đẩy liên kết với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI): Với các quy định trong các FTA thế hệ mới, các nhà đầu tư sẽ đầu tư chiều sâu vào thị trường Việt Nam, do đó, chất lượng đầu tư nước ngoài sẽ được cải thiện, tạo động lực cho phát triển nền kinh tế, tăng cường việc liên kết giữa DN FDI với các DN nội địa. Ví dụ: EVFTA sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư chất lượng cao của EU và các đối tác khác vào Việt Nam. Tính đến nay, các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng, tập trung nhiều nhất vào công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ. Một số thách thức đặt ra: Bên cạnh những tác động tích cực, việc thực hiện các FTA thế hệ mới đặt ra một số thách thức cho ngành CN CBCT Việt Nam, cụ thể: Thứ nhất, sức cạnh tranh của ngành CN CBCT Việt Nam hiện nay còn thấp. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình cam kết dẫn đến các hàng hóa sản xuất trong nước chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu, đồng thời các ngành sản xuất trong nước chịu tác động trực tiếp của những biến động trên thị trường hàng hóa quốc tế. Mặt khác, hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công lắp ráp, nguyên phụ liệu đầu vào chủ yếu phải nhập khẩu; Tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu thấp, trong khi tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chậm được cải thiện, sự liên kết giữa DN nội địa với DN FDI còn yếu khiến cho việc tận dụng các cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trở nên khó khăn hơn. Thứ hai, đối với nhập khẩu, mặc dù việc ký kết FTA với nhiều đối tác song trong ngắn hạn, nhập khẩu của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào các thị trường truyền thống (như Trung Quốc), do mức độ cam kết thuế sâu cũng như vị trí địa lý thuận lợi sẽ khiến cho vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc chưa thể giải quyết dứt điểm. Bên cạnh đó, việc cắt giảm thuế cũng 729 tạo nhiều áp lực đến hoạt động của doanh nghiệp sản xuất CN CBCT trong nước do năng lực cung ứng của DN trong nước còn yếu. Thứ ba, có một số vấn đề đặt ra đối với dòng vốn FDI vào ngành CN CBCT Việt Nam: (i) Đóng góp của FDI trong việc nâng cao năng lực công nghiệp, còn hạn chế; (ii) Mối liên kết giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn yếu kém; (iii) Các doanh nghiệp FDI chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực gia công lắp ráp, thâm dụng lao động và ít có khả năng tạo tác động lan tỏa về mặt công nghệ; (iv) Khung pháp lý và chính sách mở cửa FDI, hội nhập kinh tế quốc tế tuy đã được cải thiện, song vẫn còn nhiều hạn chế trong quản lý, dẫn tới các vấn đề như ô nhiễm môi trường, chuyển giá, trốn thuế; (iv) Dòng vốn liên thông hơn với quốc tế cũng khiến cho những nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô gia tăng trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động cũng đặt ra những thách thức trong việc xây dựng và thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô. 4. Kết luận và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy liên kết để phát triển ngành CN CBCT trong bối cảnh các Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới Như vậy, có thể thấy rằng, trong bối cảnh hội nhập và tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, vấn đề liên kết có nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành CN CBCT tại Việt Nam. Trong những năm tiếp theo, ngành CN CBCT vẫn được coi là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để có thể tận dụng được những cơ hội và hạn chế những thách thức trong thực hiện cam kết của các FTA thế hệ mới, cần có những giải pháp để thúc đẩy liên kết trong ngành CN CBCT. Cụ thể là: Thứ nhất, các DN nội địa cần nỗ lực hơn nữa trong việc nâng cao năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của DN FDI, các tập đoàn đa quốc gia, tham gia vào các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó, nâng cao giá trị gia tăng cho toàn ngành CN CBCT. Để làm được điều này, giải pháp nỗ lực đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất sẽ có ý nghĩa lớn. Các doanh nghiệp cần chủ động đổi mới, áp dụng tiến bộ công nghệ vào hoạt động sản xuất; tăng cường kết nối với các DN, tập đoàn đa quốc gia để học hỏi, tiếp thu công nghệ và quá trình tổ chức hoạt động sản xuất để tăng năng suất, giá trị gia tăng của sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong DN để nắm bắt tốt công nghệ, các thông tin về sản xuất, thị trường, ... Thứ hai, Chính phủ cũng cần có các chính sách để phát triển các khu, cụm ngành công nghiệp theo hướng chuyên sâu để tạo thành các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, từ đó, thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước và giữa DN nội địa với DN FDI, các tập đoàn đa quốc gia. Đồng thời, cần định hướng dòng vốn FDI theo hướng tăng cường liên kết với DN trong nước, tăng cường thu hút FDI vào các các ngành công nghiệp hỗ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa. Mặt khác, cần tăng cường sự phối hợp và liên kết giữa DN với các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức, trung tâm, hiệp hội hỗ trợ DN để có thể kịp thời trao đổi, cung cấp các 730 thông tin, quy định liên quan đến việc thực thi các Hiệp định, các thông tin về thị trường, các thông tin về chính sách ưu đãi, chính sách hỗ trợ, ... cho doanh nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Văn Cương (2019), Tác động của các Hiệp định thương mại thế hệ mới đến vấn đề ao động, việc làm ở Việt Nam 2. Lê Minh Ngọc và Lê Huyền Trang (2011), "Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển các cụm liên kết ngành tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập", Nghiên cứu kinh tế số 396, tr. 41-50. 3. Nguyễn Ngọc Sơn (2015), Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và ngành ngân hàng trong bối cảnh Hội nhập, Hà Nội. 4. Nguyễn Đình Tài (2013), Hình thành và phát triển c m liên kết ngành ở Việt Nam: Một lựa chọn chính sách, Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện quản lý kinh tế Trung Ương, truy cập ngày 20/7/2016-2016, tại trang web hoa-Hien-dai-hoa/Hinh-thanh-va-phat-trien-cum-lien-ket-nganh-o-Viet-Nam-Mot-so-lua- chon-chinh-sach.html. 5. Võ Trí Thành, "Phát triển mạng lưới cụm liên kết ngành ở Việt Nam". 6. Tổng cục Thống kê (2019), Niên giám thống kê 2018, chủ biên, NXB Thống Kê, Hà Nội. 7. Viện Nghiên cứu Mitsubishi và Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2016), Báo cáo Nghiên cứu về nâng cao năng ực các Ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. 8. Joynal Abdin (2016), Government‟s ro e in industria c uster deve opment, truy cập ngày 4-9-2018, tại trang web https://www.linkedin.com/pulse/governments-role-industrial- cluster-development-md-joynal-abdin. 9. Ana Colovic và Olivier Lamotte (2014), "The role of formal industry clusters in the internationalization of new ventures", European Business Review. 26(5), tr. 449-470. 10. Stephen Mark Dobson (1984), An analysis of the role of linkages in peripheral area development: the case of devon and cornwall, Universit y of Exeter. 11. Khalid Nadvi và Stephanie Barrientos (2004), Industrial clusters and poverty reduction.
File đính kèm:
- thuc_day_lien_ket_de_phat_trien_nganh_cong_nghiep_che_bien_c.pdf