Thiết kế và chế tạo detector nhấp nháy sử dụng tinh thể CSI(TL) và quang đi-ốt thác lũ đo bức xạ gamma
Detector nhấp nháy là loại detector có hiệu suất ghi cao, sử dụng đơn giản, giải quyết tốt
được mục tiêu của nhiều nghiên cứu và đào tạo nên việc nội địa hóa quá trình chế tạo sẽ mang lại
nhiều ích lợi. Việc sử dụng quang đi ốt thác lũ thay cho ống nhân quang điện (PMT) cho phép tiết
kiệm năng lượng, rút gọn thể tích detector và loại bỏ khối cao áp công suất lớn và khối khuếch đại
hình thành xung. Tổ hợp chất nhấp nháy CsI(Tl), quang đi ốt thác lũ, tiền khuếch đại nhạy điện tích,
hệ thống khuếch đại dải rộng và hệ nguồn nuôi đã được tích hợp vào trong detector.
Bài viết này đưa ra một số kết quả mới trong việc chế tạo thử nghiệm detector nhấp nháy sử
dụng quang đi ốt thác lũ. Các detector loại này có thể sử dụng được trong các trạm quan trắc môi
trường, các bệnh viện và các phòng thí nghiệm hạt nhân của các trường đại học để đào tạo và huấn
luyện sinh viên
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiết kế và chế tạo detector nhấp nháy sử dụng tinh thể CSI(TL) và quang đi-ốt thác lũ đo bức xạ gamma
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 34 Số 63 - Tháng 6/2020 1. NHẬP ĐỀ Ngày nay, số lượng nhà máy điện hạt nhân ngày càng tăng nhanh, đặc biệt ở Trung Quốc mà Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực dễ bị ảnh hưởng nhất do ở phía cuối các luồng không khí vận chuyển trong các mùa thu, đông và xuân. Thêm vào đó, các mỏ quặng chứa chất phóng xạ, các nhà máy nhiệt điện thải vào môi trường các xỉ than có chứa phóng xạ cũng là một vấn đề quan trọng cần được giám sát, theo dõi. Vì vậy, việc xây dựng các trạm quan trắc môi trường phóng xạ là một nhiệm vụ cấp thiết. Theo quy hoạch đã được chính phủ phê duyệt bằng Quyết định số 1636/QĐ-TTg,Việt Nam cần có mạng lưới quan trắc phóng xạ với số trạm lên đến hàng trăm trạm trên toàn quốc. Ngoài ra, nhu cầu về các detector và hệ thống thiết bị đo đạc, xử lý số liệu bức xạ hạt nhân phục vụ nhu cầu nghiên cứu và đào tạo cũng tăng nhanh. Cho dù chương trình điện hạt nhân đã tạm dừng nhưng các ứng dụng kỹ thuật hạt nhân khác trong y tế, công nghiệp vẫn đang tăng trưởng mạnh mẽ. Tình hình nói trên đã đặt ra yêu cần có nhiều hệ đo gamma nhằm đo liều bức xạ, giám sát môi trường, đào tạo Các hệ đo với detector nhấp nháy chắc chắn chiếm tỷ lệ cao trong số các hệ đo được sử dụng do tính đơn giản trong sử dụng, hiệu suất ghi cao, bền trong các môi trường làm việc khác nhau và cung cấp nhiều thông tin về trường bức xạ được giám sát. Các lý do trên đã đặt ra yêu cầu chế tạo số lượng lớn các detector ghi đo bức xạ có độ bền cao, đáp ứng yêu cầu làm việc liên tục, tiêu thụ năng lượng ít, gọn nhẹ, đơn giản và nhanh chóng được bảo dưỡng khi có yêu cầu và thay thế khi cần thiết. 2. LỰA CHỌN CẤU HÌNH DETECTOR NHẤP NHÁY 2.1. Lựa chọn chất nhấp nháy Chất nhấp nháy NaI (Tl) thuộc loại phổ cập nhất có độ ra sáng lớn, có thể chế tạo thành những tinh thể có kích thước lớn đến hàng dm3. Nhược điểm chủ yếu của nhấp nháy NaI (Tl) gồm: - Tuổi thọ của tinh thể giảm nhiều nếu bị sốc nhiệt, thậm chí tự rạn vỡ. Điều này làm cho nhấp nháy NaI (Tl) được sử dụng chủ yếu trong phòng thí nghiệm – nơi có nhiệt độ ổn định hoặc thay đổi chậm. - Độ ra sáng của tinh thể nhấp nháy NaI (Tl) thay THIẾT KẾ VÀ CHẾ TẠO DETECTOR NHẤP NHÁY SỬ DỤNG TINH THỂ CSI(TL) VÀ QUANG ĐI-ỐT THÁC LŨ ĐO BỨC XẠ GAMMA Detector nhấp nháy là loại detector có hiệu suất ghi cao, sử dụng đơn giản, giải quyết tốt được mục tiêu của nhiều nghiên cứu và đào tạo nên việc nội địa hóa quá trình chế tạo sẽ mang lại nhiều ích lợi. Việc sử dụng quang đi ốt thác lũ thay cho ống nhân quang điện (PMT) cho phép tiết kiệm năng lượng, rút gọn thể tích detector và loại bỏ khối cao áp công suất lớn và khối khuếch đại hình thành xung. Tổ hợp chất nhấp nháy CsI(Tl), quang đi ốt thác lũ, tiền khuếch đại nhạy điện tích, hệ thống khuếch đại dải rộng và hệ nguồn nuôi đã được tích hợp vào trong detector. Bài viết này đưa ra một số kết quả mới trong việc chế tạo thử nghiệm detector nhấp nháy sử dụng quang đi ốt thác lũ. Các detector loại này có thể sử dụng được trong các trạm quan trắc môi trường, các bệnh viện và các phòng thí nghiệm hạt nhân của các trường đại học để đào tạo và huấn luyện sinh viên THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 35Số 63 - Tháng 6/2020 đổi mạnh khi nhiệt độ thay đổi – đến 0,3%/°C. Vì vậy, các hệ phổ kế nhấp nháy NaI (Tl) thường phải có hệ thống ổn định phổ đi kèm [1] hoặc phải có hệ thống phần mềm hiệu chỉnh phổ khi thời gian đo kéo dài, nhất là với các hệ đo dã ngoại, đặt ngoài phòng thí nghiệm. Việc sử dụng bộ ổn định phổ làm cho chi phí mua sắm hệ đo tăng lên nhiều lần. Hình 1. Cường độ phát của 4 loại nhấp nháy và độ nhạy phổ của 2 loại PMT [3] Chất nhấp nháy CsI(Tl) có hai ưu điểm so với NaI(Tl) là độ ra sáng ổn định, thay đổi theo nhiệt độ môi trường ít hơn 30 lần (~ 0,01%/°C) và chịu được sốc nhiệt. Hơn nữa, khối lượng riêng của CsI(Tl) cao hơn NaI(Tl) và số photon được tạo nên trên 1 keV năng lượng tia gamma đi tới de- tector cao hơn (4,51 g/cm3, 55 photon/keV so với 3,67 g/cm3 và 38 photon/keV tương ứng). Tuy nhiên, khi ghép CsI(Tl) với PMT thì biên độ xung ra ở anod thấp hơn 2 lần so với NaI(Tl) – do phổ phát xạ của CsI(Tl) nghiêng về phía hồng ngoại mà ở vùng bước sóng đó, hiệu suất lượng tử của PMT thấp. Tình hình sẽ đổi khác nếu ghép CsI(Tl) với quang đi ốt Si: Nhấp nháy CsI(Tl) ghép với quang đi ốt cho biên độ xung ra lớn hơn hẳn so với ghép NaI(Tl) với quang đi ốt. Hình 1 cho thấy mức độ phù hợp của các nhấp nháy với các PMT. Vì có nhiều loại quang đi ốt (quang đi ốt Si; quang đi ốt Si loại PIN và quang đi ốt Si loại thác lũ), việc lựa chọn chất nhấp nháy CsI(Tl) và yêu cầu chế tạo hệ đo gọn nhẹ dẫn đến lựa chọn quang đi ốt làm hệ thống biến đổi quang - điện. 2.2 Lựa chọn linh kiện biến đổi quang-điện Hình 2. Hiệu suất lượng tử của quang đi-ốt S3590-08[4] Hình 3. Hiệu suất lượng tử của quang đi-ốt S8664-0505[4] Với thành tựu phát triển khoa học trong lĩnh vực linh kiện bán dẫn, sự thay thế PMT bằng quang đi ốt (gồm quang đi ốt thường và quang đi ốt thác lũ) đang diễn ra. So với ống nhân quang điện, quang đi ốt có những ưu điểm: - Kích thước nhỏ, quãng đường di chuyển của các phần tử tải điện cỡ % mm nên hoạt động của quang đi ốt không nhạy với từ trường. - Không cần khối cao áp công suất lớn, điện áp cao như detector nhấp nháy sử dụng PMT. Điện áp bias đặt lên quang đi ốt thường dưới 400V và dòng điện cỡ nA. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 36 Số 63 - Tháng 6/2020 - Hiệu suất lượng tử cao, đạt tới trên 80% ở vùng bước sóng khả kiến. Hình 2 thể hiện hiệu suất lượng tử phụ thuộc bước sóng của các photon tới và sự phù hợp của quang đi ốt S3590-08 với các loại nhấp nháy NaI(Tl), BGO và CsI(Tl). Và rõ ràng là trong số 3 loại nhấp nháy thì CsI(Tl) phù hợp nhất với quang đi ốt. Tuy nhiên, việc sử dụng quang đi ốt thường làm bộ chuyển đổi quang điện cũng có nhược điểm là quang đi ốt thuộc loại S3590 không có sự khuếch đại nội nên tín hiệu ra nhỏ, tỷ số tín hiệu trên tập âm không cao. Để khắc phục tình trạng này, có hai giải pháp như sau: - Sử dụng tiền khuếch đại nhạy điện tích có tạp âm rất thấp và được chống nhiễu tốt. Công bố [2] là một ví dụ đi theo hướng này. - Thay thế quang đi ốt thường(như S3590-08) bằng quang đi ốt thác lũ (như S8664-1010/0505). Sự khuếch đại dòng trong quang đi ốt thác lũ không đóng góp tạp âm như các mạch điện tử. Tuy điện dung của quang đi ốt thác lũ cao nhưng việc khuếch đại dòng điện bù lại nên vẫn nâng được cả biên độ tín hiệu ra lẫn tỷ số tín hiệu trên tạp âm. Công bố [5] là ví dụ điển hình của phương án thứ 2. Trong nghiên cứu này, phương án thứ 2 đã được lựa chọn là sử dụng quang đi ốt thác lũ loại S8664- 0505 để ghép với nhấp nháy CsI(Tl). Hiệu suất quang điện của S8664-0505 được thể hiện trên Hình 3. Các photon do CsI(Tl) phát ra có bước sóng từ khoảng 380 : 780 nm và ở dải bước sóng này, hiệu suất lượng tử của S8664-0505 tính trung bình không nhỏ hơn 80%. 3. THỰC NGHIỆM, KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Thực nghiệm, kết quả Detector có dạng hình trụ có đường kính 32mm, độ dài 190 mm, dày 2 mm – chế tạo từ nhôm như ở Hình 4. Tinh thể CsI(Tl) kích thước 1x1x- 3cm, quang đi ốt thác lũ loại S8664-0505 và tiền khuếch đại nhạy điện tích CR-110 được đưa vào trong ngăn thứ nhất và thứ 2 của detector (phía bên phải). Hình 4. Detector và mạch nguồn nuôi, khuếch đại Ngăn thứ 2 (phía bên trái) của detector là hệ thống nguồn và khuếch đại sơ bộ: Từ điện áp ±12 V đưa vào, hệ mạch nguồn tạo ra: điện áp 5 V để tạo điện áp bias cho quang đi ốt thác lũ S8664-0505; các điện áp ± 6,8 V cung cấp cho tiền khuếch đại và ± 6V cung cấp cho hệ khuếch đại sơ bộ. Hệ khuếch đại sơ bộ được đưa vào để chuẩn dải biên độ xung ra – thay đổi hệ số biến đổi năng lượng của lượng tử gamma bị tinh thể nhấp nháy hấp thụ thành biên độ xung cho các loại nhấp nháy và tiền khuếch đại khác nhau để biên độ xung ra với cùng một loại chuyển dời gamma là như nhau. Điện áp bias 380 V được tạo ra từ linh kiện tổ hợp C10940-53 do hãng Hamamatsu chế tạo. Hình 5: Cấu hình thực nghiệm đánh giá detector Hệ thiết bị kiểm tra detector gồm khuếch đại và tạo dạng 2022 của hãng Canberra, MCA loại AP- G7300A của hãng TechnoAP – trên hình 5 được sử dụng để khảo sát detector nhấp nháy được lắp ráp như mô tả ở trên. Các nguồn phóng xạ dùng trong các thực nghiệm đánh giá detector là Cs137 và Co60 phát ra các lượng tử gamma 661,7; THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 37Số 63 - Tháng 6/2020 1173,2 và 1332,5 keV tương ứng. Phổ thu được đo với Cs137 được thể hiện trên hình 6, phổ thu được khi đo với Co60 được biểu diễn trên Hình 7. Các giá trị độ phân giải năng lượng với các đỉnh 661,7 keV và 1332,5 keV là 9,81% và 6,08%. Hình 6: Phổ đo được với Cs137, độ phân giải ở đỉnh 661 keV đạt 9,8 % Hình 7: Phổ đo với nguồn Co60. Độ phân giải năng lượng ở đỉnh 1332 keV đạt 6,08% 3.2 Thảo luận Các kết quả thu được về phổ trên Hình 6 và Hình 7 cho thấy: - Kích thước tinh thể thuộc loại nhỏ nên số lượng quá trình tán xạ Compton nhiều lần dẫn tới tạo xung ra có biên độ nằm ở đỉnh hấp thụ quang điện không lớn. Điều này dẫn tới đóng góp của tán xạ Compton vào hiệu suất ghi toàn phần của detec- tor cao hơn so với đóng góp của tán xạ Compton ở các tinh thể nhấp nháy kích thước lớn (phổ cập là 40 mm đường kính và cao 40 mm). - Ngưỡng cắt còn cao – khoảng 40 keV nên chưa thể sử dụng detector loại này đo tia X hoặc các gamma mềm có năng lượng dưới 40 keV. - So sánh độ phân giải năng lượng ở 661,7 keV như thông lệ cho thấy độ phân giải năng lượng của detector được chế tạo gần tiếp cận được với kết quả ở [2], [5] và [7]. Các chuyển dời gamma 661,7; 1173,2 và 1332,5 keV tạo nên các đỉnh trong phổ ở các kênh 352; 620 và 705 tương ứng. Việc xây dựng đường chuẩn năng lượng E γ = a.X + b với X là vị trí đỉnh; E γ là năng lượng của tia gamma; a và b là các tham số của đường chuẩn năng lượng cho kết quả a = 1,900 và b = -7,2. Như vậy, đường chuẩn năng lượng cắt trục hoành ở tọa độ (4, 0). Ngưỡng cắt của phổ ở kênh 25 tương ứng với năng lượng 40 keV. Trong vùng từ kênh 4 đến kênh 25 là đóng góp của các xung có biên độ nhỏ do nhấp nháy hấp thụ được một phần nhỏ năng lượng của tia gamma và các xung do tiếng ồn tạo nên – các xung này không được phân tích biên độ. Việc đánh giá đóng góp của tiếng ồn có thể thông qua xem xét độ phân giải của đỉnh 1332,5 keV. Độ phân giải của đỉnh 1332,5 keV là 6,08% tương đương 80 keV. Do các đóng góp tiếng ồn của hệ khuếch đại 2022 là nhỏ nên tạp âm chủ yếu là do đóng góp của tiếng ồn nội của tiền khuếch đại và tạp âm ENC do điện dung của quang đi ốt thác lũ gây nên - ước lượng ban đầu là dưới 20 keV. Tuy nhiên, để chính xác loại tiếng ồn và tỷ lệ đóng góp của các thành phần tiếng ồn, cần tiến hành các thực nghiệm bổ sung khác. Ngoài ra, cũng cần thiết kế lại vỏ detector để tăng khả năng truyền qua của tia X và tia gamma mềm. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 38 Số 63 - Tháng 6/2020 Các thực nghiệm đánh giá hiệu suất ghi, ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm, độ ổn định và độ bền, chống nhiễu điện từ và khắc phục tạp âm của hệ để giảm ngưỡng đo sẽ được tiếp tục trong thời gian tới. 4. KẾT LUẬN Với các kết quả như trên, có thể đánh giá tích cực về triển vọng tự chế tạo các detector nhấp nháy để phục vụ mục tiêu nội địa hóa thiết bị đo đạc bức xạ của Việt Nam nhằm làm chủ công nghệ, giảm chi phí trang bị, chủ động bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa và thay thế của các đơn vị giám sát môi trường, nghiên cứu và đào tạo. Ở tình trạng hiện tại, các detector với các thông số như trên hoàn toàn có thể sử dụng được ở các trạm quan trắc môi trường, thiết bị trinh sát phóng xạ, các phòng thí nghiệm phục vụ đào tạo và bệnh viện y học hạt nhân để đo bức xạ gamma có năng lượng từ 50 keV trở lên. Các hiệu chỉnh kỹ thuật và mỹ thuật công nghiệp cũng đang được thực hiện để sớm chế tạo hàng loạt detector loại này. Các tác giả trân trọng cảm ơn Đại học Bách khoa Hà Nội đã cung cấp kinh phí mua APD S8664 cho nghiên cứu này thông qua đề tài T2018-PC-124. Phạm Đình Khang TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Scintillation Materials and Assemblies. www. crystals.saint-gobain.com. [2] Kwang Hyun Kim et al. Signal and noise per- formance of large-area PIN photodiodes and charge-sensitive preamplifiers for gamma radi- ography. Nuclear Instruments and Methods in Physics Research A 591 (2008) 63–66. [3] G. Knoll, Radiation Detection and Measure- ment, 3rd ed. Hoboken, NY: John Wiley & Sons, 2000 [4] HAMAMATSU Corp., Si PIN Photodiodes S3590- / S2744- / S3204-/ S3584- / S3588-08 (pre- liminary data), Hamamatsu Photonics K.K. [5] Gascon M. et all, Optimization of Energy Res- olution Obtained With CsI(Tl) Crystals for the R3B Calorimeter. IEEE Transactions on Nuclear Science, 55(3), 1259–1262, 2008. [6] Hamamatsu Photonics K.K., “Si APD S8664 series data sheet”, KAPD1012E04 DN, Japan, Sep.2005. [7]https://www.kromek.com/product/sigma- scintillator-detectors/
File đính kèm:
- thiet_ke_va_che_tao_detector_nhap_nhay_su_dung_tinh_the_csit.pdf