Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Số 24 (424) - Kỳ 2, Tháng 12/2020
1. Một vài nội dung đặc biệt có giá trị lịch
sử của Quốc dân Đại hội Tân Trào
Quốc dân Đại hội Tân Trào chỉ diễn ra
2 ngày từ ngày 16 đến ngày 17 tháng Tám
năm 1945 nhưng có khá nhiều nội dung, tình
tiết đặc biệt có giá trị lịch sử, trong đó có hai
sự kiện mà chúng tôi tâm đắc nhất.
Một là, đến những năm đầu thập niên 40
của thế kỷ XX, Đảng, Bác Hồ đã rất am
tường quy trình (trình tự) có tính pháp lý của
việc xây dựng một Nhà nước ở một quốc gia.
Bác nói, “.chúng ta trước phải có một cái
cơ cấu đại diện cho sự chân thành đoàn kết
và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân
ta. Mà cơ cấu ấy phải do một toàn quốc đại
biểu đại hội gồm tất cả các đảng phái cách
mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước
bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực
lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công
cuộc cứu quốc, kiến quốc ngoài thì giao
thiệp với các hữu bang”1. Bác đã chỉ ra rằng,
trình tự thành lập Nhà nước, trước hết phải
có Quốc hội, sau đó mới lập ra Chính phủ,
hệ thống chính quyền. Tuy nhiên, trong điều
kiện đất nước chưa có chính quyền thì mọi
việc đều do Đảng lãnh đạo, “kiêm” tổ chức
thực hiện. Việc đầu tiên là phải tổ chức một
Đại hội quốc dân, một tiền thân của Quốc hội
(một Quốc hội lâm thời). Trong Đại hội này
phải lập ra một tổ chức để khi cách mạng
thành công thì tổ chức đó sẽ chuyển thành
Chính phủ. Như chúng ta đã biết, tất cả
những sự trù tính của Đảng, của Đại hội quốc
dân đã diễn ra đúng như vậy. Nghĩa là Cách
mạng tháng Tám thành công, Ủy ban Dân tộc
giải phóng được thành lập trong Đại hội, đến
ngày 25/8/1945, Ủy ban về đến Hà Nội, theo
đề nghị của Chủ tịch Ủy ban - Hồ Chí Minh,
Ủy ban đã được cải tổ thành Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Có
Quốc hội rồi mới có Chính phủ, trình tự này
đã được thực hiện rất chuẩn xác, chỉ khác là,
tất cả còn ở vị thế “lâm thời”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Số 24 (424) - Kỳ 2, Tháng 12/2020
va lập thêm hai quận mới nhằm xây dựng khu độ thị với các chung cư cao tầng để giãn dân cũng như di dời cơ quan chính phủ ra khỏi trung tâm thành phố và hình thành khu đô thị công nghệ cao (tương tự như phố Đông của Thượng Hải) thì phải cắt một phần diện tích của tỉnh Matxcova (là tỉnh bao quanh thành phố Matxcova, tỉnh này cũng đã có đến 64 thành phố các loại). Hai quận mới của Matxcova có diện tích bằng toàn bộ diện tích của thành phố Maxcova trước khi mở rộng. Trong khi đó, Trung Quốc và Việt Nam (và một số ít nước khác) lại xác lập các thành phố trực thuộc trung ương (và cả các thị xã, thị trấn) với phần lõi là phần đô thị với diện tích rất nhỏ, còn phần lớn diện tích còn lại của thành phố lại là các huyện hay khu vực nông thôn. Chẳng hạn, Thủ đô Bắc Kinh có vùng ngoại ô và nông thôn rộng lớn. Thành phố Thượng Hải và Phố Đông: Thượng Hải là thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc, là thành phố lớn nhất Trung Quốc về dân số và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. So với các thành phố khác, phần nông thôn ngoại thành của Thượng Hải chỉ có một huyện là huyện đảo Sùng Minh nằm ở cửa sông Trường Giang. Đối với Thượng Hải điểm đặc biệt là có một khu đô thị mới được thành lập từ 1993, tuy vẫn chỉ là một quận nhưng lại có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của Thành phố đó là Phố Đông.Trước đó, khu vực này chỉ là một vùng nông thôn với những ruộng lúa. Kể từ khi bắt đầu được phát triển đầu những năm 1990 - thời điểm công bố quy hoạch lần đầu tiên, đến nay Phố Đông đã nổi lên như là trung tâm tài chính và thương mại của Trung Quốc. Tuy là một quận nhưng Phố Đông có diện tích: 1.210,4 km² với dân số 5.599.600 người, tức 1/5 diện tích và 1/5 dân số Thượng Hải. Phố Đông là nơi đặt trụ sở của các tập đoàn công nghệ Số 24 (424) - T12/202050 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG cao, là đầu tàu kinh tế của Thượng Hải và của Trung Quốc. Seoul và khu đô thị Gangnam: Quận Gangnam có diện tích chỉ 39,5 km2, dân số 527.641 người, nằm phía nam thành phố Seoul Hàn Quốc, và cùng với Seocho- gu và Songpa-gu thường được gọi chung là khu “Gangnam”. Đây là khu đô thị hiện đại, giàu có, trung tâm tài chính, thương mại của Seoul. Tuy phát triển sau nhưng Gangnam trở thành khu đô thị sầm uất nhất Hàn Quốc. Tuy nhiên, Gangnam không phải là một thành phố nằm riêng biệt mà chỉ là một quận của Seoul. Như vậy, từ việc tìm hiểu khái quát một số thành phố nêu trên, kể cả thành phố có các huyện ngoại thành, chúng ta thấy không có thành phố trực thuộc thành phố nào được thành lập từ các quận đã đô thị hóa. Hiện nay, xu hướng chung ở các nước là thành lập các quận mới từ khu vực chưa có mức độ đô thị hóa cao hay vùng nông thôn của các tỉnh tiếp giáp thành phố (như Matxcova, Thượng Hải, Seoul) hoặc khu vực ngoại thành của thành phố như huyện Vinh Xương chuyển thành quận cùng tên trực thuộc thành phố Trùng Khánh (Trung Quốc). Có thể nói rằng, Trung Quốc là nước duy nhất có hai thành phố lớn trực thuộc trung ương nhưng lại liền kề nhau là Bắc Kinh và Thiên Tân. Bắc kinh là thủ đô còn Thiên Tân là một đầu tàu kinh tế, thành phố cảng cửa ngõ phía Đông Bắc Trung Quốc. 2. Vấn đề thành phố thuộc thành phố ở Việt Nam và thành phố mới Thủ Đức Theo quy định của Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn. Cách hiểu này phù hợp với quan niệm đô thị nói chung trên thế giới. Trong số các đô thị loại I được phân loại có 5 thành phố trực thuộc trung ương là Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. Các thành phố nêu trên (và cả thị xã, thị trấn) đều có vùng nông thôn ngoại thành rộng lớn, nhất là thành phố Hà Nội sau khi mở rộng năm 2008. Tại các thành phố này, trung tâm các huyện ngoại thành là đô thị cấp thị trấn, Hà Nội còn có thị xã Sơn Tây vốn là thành phố thuộc tỉnh Hà Tây, nhưng sau khi sáp nhập vào Hà Nội thì Sơn Tây bị chuyển lại thành thị xã trực thuộc thành phố Hà Nội. Như vậy, tại các thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam cũng có đô thị nhưng chưa phải là thành phố. Hiến pháp năm 2013 không quy định thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, nhưng Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định loại thành phố này. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 2.095,239 km² , dân số 8.993.082 người, khu vực thành thị là 7.127.364 người (chiếm 79,25%) Tuy nhiên, khu vực đô thị của Thành phố Hồ Chí Minh cũng có diện tích nhỏ hơn so với 5 huyện ngoại thành. Đặc điểm lớn nhất của các thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam là diện tích khu vực nông thôn rất lớn, lớn hơn khu vực đô thị nội thành. Nếu quan niệm đô thị đúng như các nước thì các khu vực nông thôn ngoại thành ở Trung Quốc và Việt Nam (và có thể có một số nước khác) không thể gọi là đô thị. Thực chất đó cũng chỉ là các tỉnh, các prefectures. Nếu là thành phố trực thuộc trung ương đúng nghĩa thì phải là Paris, Berlin, Matxcova, St. Peterburg, Seoul, ...nghĩa là một đô thị trọn vẹn không có khu vực nông thôn. Chính vì thế, việc đô thị hóa các khu vực ngoại thành để trở thành các quận nội thành mới như quận 12, quận Bình Tân, quận Thủ Đức, quận 2, quận 9 hoặc Phố Đông ở Thượng Hải, Gang Nam ở Seoul, Newmoscow ở Matxcova.... là cách làm truyền thống của tất cả các nước. Nhưng nếu chuyển một trong các quận nội đô trở thành thành phố thì có lẽ chưa nơi nào trên thế giới từng làm. Lấy trường hợp thành phố Thủ Đức: Nếu xác định Thủ Đức là một khu đô thị có mục tiêu phát triển riêng trở thành trung tâm tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương mại, giải trí, văn hóa, công nghệ thì cần có cơ chế đặc thù để thu hút đầu tư riêng, có chính sách ưu đãi về thuế cũng như chính 51Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG sách ưu đãi về đất đai, v.v..., được chính quyền trung ương quy định vị trí pháp lý riêng như Phố Đông của Thượng Hải, Gang Nam của Seoul... thi việc nhập quận 2, quận 9, quận Thủ Đức thành quận Thủ Đức sẽ hợp lý hơn là thành lập thành phố Thủ Đức. Bởi lẽ, đây là 3 quận nội đô, có cơ sở hạ tầng thống nhất với toàn bộ khu nội đô thành phố. Chúng tôi cho rằng, vấn đề đặt ra ở đây là khu đô thị này sẽ có mục tiêu, chiến lược phát triển như thế nào? chính quyền trung ương và thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò gì trong việc thúc đẩy khu đô thị này phát triển chứ không quan trọng là thành phố Thủ Đức hay quận Thủ Đức. Nếu là thành phố Thủ Đức với vị trí của một đơn vị cấp huyện, thẩm quyền giới hạn theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương, không có cơ chế đặc thù thì cũng không có khả năng phát triển. Hiện nay, nếu cho rằng, Thủ Đức có nhiều thế mạnh riêng nổi bật thì không hẳn đã đúng, hơn nữa sự phát triển hiện nay của Thủ Đức có được tiếp nối hay không thì không những phụ thuộc vào nỗ lực của Thành phố Thủ Đức mà còn là sự góp sức của Thành phố Hồ Chí Minh, chính quyền trung ương và của các doanh nghiệp. Thành phố Thủ Đức hiện nay có một số điểm nổi bật sau đây: 1) Khu công nghệ cao quận 9: Đây được coi là điểm nhấn quan trọng nhất của Thành phố Thủ Đức tương lai. Trước đây việc phê duyệt khu công nghệ cao này đã là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Như vậy, khu công nghệ cao là một dự án mang tầm quốc gia. Nay để khu công nghệ cao phát triển hơn thì cần các quyết sách của trung ương và Thành phố Hồ Chí Minh nhiều hơn là Thành phố Thủ Đức. 2) Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh: Đây không phải là vấn đề của Thành phố Hồ Chí Minh, vì Đại học Quốc gia trực thuộc Chính phủ, một số trường đại học khác cũng trực thuộc bộ, ngành trung ương. Sự phát triển của Đại học Quốc gia không phụ thuộc nhiều vào Thành phố Hồ Chí Minh, càng không phụ thuộc vào Thành phố Thủ Đức. 3) Tuyến Metro Bến Thành- Suối Tiên: Metro là hệ thống giao thông công cộng của Thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu do trung ương đầu tư từ nguồn vốn ODA và một phần từ Thành phố Hồ Chí Minh, do Thành phố Hồ Chí Minh thống nhất quản lý, chạy qua nhiều quận, tương lai còn có các tuyến khác và tạo nên một hệ thống Metro thống nhất. Như vậy, có thể nói, Thành phố Thủ Đức hay các quận khác không có vai trò gì đối với việc phát triển hệ thống Metro. 4) Các khu dân cư mới, hiện đại: Quận 9 và quận 2 là nơi đang phát triển các dự án bất động sản lớn, hiện đại, tạo nên những khu đô thị văn minh, thu hút số lượng lớn dân cư, bộ mặt của quận 9 và quận 2, nhất là quận 9 thay đổi nhanh chóng, giá đất tăng chóng mặt. Việc xây dựng các khu đô thị này là theo quy hoạch của Thành phố Hồ Chí Minh được Chính phủ phê duyệt. Các quận Thủ Đức, quận 9, quận 2 chủ yếu là quản lý, theo dõi việc bảo đảm quy hoạch, các quy định trong việc giao đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, v.v... Sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư để xây dựng các khu đô thị này đối với các doanh nghiệp bắt nguồn từ chính sách của Thành phố và trong quy hoạch tổng thế phát triển Thành phố được Chính phủ phê duyệt. 5) Cảng Cát Lái: Đây là cảng container thuộc quản lý của Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Bộ Quốc phòng. Vậy cảng Cát Lái không phải là “con riêng” của Thành phố Thủ Đức. 6) Cuối cùng là các khu chế xuất, các khu công nghiệp: Vào những năm 1990 do nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng rất hạn chế nên Thành phố Hồ Chí Minh đã buộc phải xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp sát thành phố, mặc dù những năm đó các khu vực này đều là vùng ngoại thành (huyện Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh) nhưng đến nay chúng đã nằm trọn trong nội đô, trong đó có các khu công nghiệp ở quận Thủ Đức và quận 9, nhất là ở quận Thủ Đức với hàng trăm nghìn công nhân. Vậy vấn đề xây dựng nhà ở, trường học, nơi khám chữa bệnh cho hàng trăm nghìn công nhân này đang là nhiệm vụ nặng nề của Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Thủ Đức chỉ là đơn vị cấp huyện thì rõ ràng không thể có đủ năng lực để giải quyết những vấn đề này. Nếu Thủ Đức phát triển theo hướng công nghệ cao, Số 24 (424) - T12/202052 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG kinh tế tri thức, các sản phẩm giá trị gia tăng cao thì Thành phố Hồ Chí Minh phải có cả một chiến lược phát triển cho khu vực thành phố mới Thủ Đức, chứ không thể là việc riêng của một thành phố cấp huyện như thành phố Thủ Đức. Thay cho lời kết, chúng tôi cho rằng, sẽ hợp lý hơn nếu quận Thủ Đức, quận 2 và quận 9 sáp nhập lại thành quận Thủ Đức (mới) chứ không phải là tạo ra một thành phố Thủ Đức với vị trí của một đơn vị hành chính cấp huyện từ ba quận nội đô. Tất cả các khu vực nông thôn ngoại thành liền kề với khu nội đô của các thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam nếu kết nối trực tiếp với khu vực nội đô bằng cơ sở hạ tầng thống nhất thì chỉ có thể là gọi là quận mới hay một khu đô thị mới với nhiều quận chứ không thể gọi là thành phố trực thuộc thành phố được. Còn để khu đô thị mới đó phát triển mạnh mẽ thì cần có cơ chế chính sách đặc thù của Chính phủ trung ương để thu hút đầu tư và phát triển nguồn lực từ mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, còn thành phố trực thuộc trung ương cũng như khu đô thị mới cần có mức độ tự chủ cao. Nói tóm lại, vấn đề là mục tiêu và chiến lược phát triển, cơ chế tạo nguồn lực cho khu đô thị mới phát triển chứ không phải là khu đô thị này có tên gọi là thành phố hay là quận. Nếu cần có một thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (nếu đủ điều kiện hoặc quy hoạch mới) thì đó chính là các đô thị vệ tinh được phát triển từng bước từ thị xã lên thành phố. Những đô thị đó phải được quy hoạch từ các vùng nông thôn và có một khoảng cách nhất định với khu vực nội đô, hoàn toàn có có cơ sở hạ tầng đô thị riêng. Những đô thị mới đó sẽ phát triển với một chiến lược riêng, trở thành đầu tàu cho một khu vực mới. Chẳng hạn, có thể là thành phố Cần Giờ hay thành phố Củ Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, cách xa nội đô khoảng 40 km, chúng có đặc thù phát triển khác với các quận nội đô. Đó mới là thành phố trực thuộc thành phố - một đô thị mới đúng nghĩa n Ngày 03/5/1946, Văn phòng đã phục vụ Ban Thường trực Quốc hội thành lập một Đoàn công tác do linh mục Phạm Bá Trực dẫn đầu cùng Chính phủ vào Trung Bộ để giải thích cho đồng bào hiểu rõ chính sách quốc gia liên hiệp của Chính phủ Hồ Chí Minh. Tiếp đó, ngày 14/8/1946, Văn phòng đã phục vụ Ban Thường trực Quốc hội thành lập một phái đoàn đại biểu Quốc hội, trong đó có các đại biểu Nguyễn Trí và Dương Văn Dư vào Nam Trung Bộ thăm hỏi các chiến sĩ đang anh dũng chiến đấu trên các mặt trận. Cũng trong thời gian này, Văn phòng còn giúp Ban Thường trực Quốc hội chỉ đạo soạn thảo Bản tuyên ngôn để hiệu triệu quốc dân đồng bào đoàn kết chặt chẽ, đập tan mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của địch... Chỉ trong 8 tháng (thời gian giữa hai kỳ họp, từ tháng 3 đến tháng 11 năm 1946), Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội đã tham mưu, phục vụ ba Tiểu ban của Quốc hội xem xét và cho ý kiến vào 98 dự án sắc lệnh do Chính phủ gửi sang. Tuyệt đại bộ phận các ý kiến của Ban Thường trực Quốc hội về các dự án Sắc lệnh đã được Chính phủ tiếp thu (trong đó được tiếp thu nhiều hơn cả là các dự án Sắc lệnh về hội họp, Sắc lệnh về ấn loát, Sắc lệnh về lao động, Sắc lệnh về giáo dục...). Mặc dù số lượng cán bộ Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội còn rất ít, trình độ khi ấy cũng còn hạn chế, nhưng ngay từ buổi đầu với tinh thần hăng say cách mạng, anh chị em đã làm việc hết sức tận tụy và có trách nhiệm cao nên đã giúp Ban Thường trực Quốc hội giải quyết thấu đáo nhiều công việc hệ trọng. Bên cạnh những công việc mang tầm cỡ chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại lớn lao thì mọi công việc hành chính, quản trị như văn thư, đánh máy, ấn loát, giao thông liên lạc... đến việc theo dõi tình hình hoạt động của các đại biểu ở các địa phương để giúp Ban Thường trực Quốc hội giữ mối liên lạc, tất thảy đều được thực hiện nghiêm túc, kết quả tốt... Đó cũng là tiền đề để Văn phòng các giai đoạn sau học tập, rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng tham mưu, phục vụ Quốc hội trong từng thời kỳ cho tới tận bây giờ n 75 năm quốc hội việt nam ... (Tiếp theo trang 7) 53Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 24 (424) - T12/202054 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP 55Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 24 (424) - T12/202056 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP 57Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 24 (424) - T12/202058 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP 59Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 24 (424) - T12/202060 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP 61Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 24 (424) - T12/202062 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP 63Số 24 (424) - T12/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 24 (424) - T12/202064 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP
File đính kèm:
- tap_chi_nghien_cuu_lap_phap_so_24_424_ky_2_thang_122020.pdf