Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Số 20 (420) - Kỳ 2, Tháng 10/2020
Tóm tắt:
Quyền hưởng dụng trong chừng mực nào đó, có thể xem như được
phân tích từ “kết quả chia tách các nội dung của quyền sở hữu:
người có quyền hưởng dụng nắm giữ quyền sử dụng; còn chủ sở
hữu giữ lại cho mình quyền định đoạt đối với tài sản”1. Việc thực
hiện các quyền của người hưởng dụng sẽ tác động đến quyền của
chủ sở hữu và ngược lại. Bài viết phân tích về mối quan hệ tác
động qua lại này.
Abstract:
Usufruct right can be in some views being analyzed from the
“results of the separation of the contents of ownership right: the
usufructary holds the use right; while the owner retains for himself
the right to dispose of the property”. The exercise of the rights of
the latter affects the rights of the owner and vice versa. This article
provides analysis of this reciprocal relationship.
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN HƯỞNG DỤNG
VÀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN DƯỚI GÓC NHÌN SO SÁNH
1. Khái quát chung về quyền hưởng dụng
Quyền hưởng dụng được quy định từ
Điều 257 đến Điều 266 Mục 2 Chương XIV
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Đây là
một trong những quy định mới mang tính
chất đột phá khi BLDS năm 2015 ghi nhận
thêm quyền hưởng dụng bên cạnh quyền sở
hữu - một quyền năng được coi là quan trọng
nhất trong thực tiễn giao dịch dân sự từ trước
đến nay.
Theo đó, Điều 257 BLDS năm 2015 quy
định: “Quyền hưởng dụng là quyền của chủ
thể được khai thác công dụng và hưởng hoa
lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu của chủ thể khác trong một thời hạn
nhất định”. Quy định này cho thấy, quyền
hưởng dụng là quyền của một chủ thể đối
với tài sản thuộc sở hữu của chủ thể khác để
được hưởng các lợi ích do tài sản đó mang
lại. Nói cách khác, quy định này mang tính
chất “mở đường” nhằm tạo điều kiện cho các
chủ thể không phải là chủ sở hữu tài sản
được phép khai thác các công dụng, lợi ích
từ tài sản đó đem lại cho chủ thể. Tuy nhiên,
chủ thể có quyền hưởng dụng chỉ được phép
khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản thuộc quyền sở hữu của người
khác mang lại trong một thời hạn nhất định2
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Số 20 (420) - Kỳ 2, Tháng 10/2020
talented, virtuous people to take on the affairs of the country...”. With the awareness, the human resources arrangements, in which it is focused on structure, criteria, qualifications, and process of selection and recommendation of the persons as deputies of the People’s Council, always receive public interests, as well as are the key factors for the success of each election of the People’s Council deputies at all levels. Currently, the Government is submitting to the Standing Committee of the National Assembly for reviews and approval of a Resolution guiding the projected structure, composition, and allocation of the persons recommended as the candidates for People’s Council deputies at all levels for 2021-2026. Under the scope of this article, the author analyzes the political, legal ground, the applicable criteria, the structure of the deputies of the People’s Council at all levels for 2016-2021, and also provides recommendations for 2021- 2026. 1 Tuần báo Cứu quốc số 130 ngày 31.12.1945. 61Số 20 (420) - T10/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG 1. Cơ sở chính trị, pháp lý và thực trạng tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 Các bản Hiến pháp của nước ta đều quy định HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước cử tri địa phương và trước HĐND về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đại biểu của mình. Đại biểu HĐND bình đẳng trong thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Trong nhiệm kỳ 2016-2021, các cơ quan của Đảng và đã ban hành hơn 40 văn bản về công tác cán bộ, trong đó đáng chú ý như Nghị quyết số 18-NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 26- NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt hiệu lực, hiệu quả... Nhân dịp Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII bàn về nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã đánh giá: “Sau 20 năm thực hiện Chiến lược, đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn. Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý dưới 40 tuổi công tác ở ban, bộ, ngành trung ương là 6,22%; ở cấp tỉnh là 6,41%; cấp huyện dưới 35 tuổi là 6,5%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý công tác tại địa phương tăng 2 lần trong 3 nhiệm kỳ qua, từ 10% lên 20%; tỷ lệ cán bộ lãnh đạo nữ công tác ở các ban, bộ, ngành trung ương là 13,03%”2. Về đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, theo quy định của pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã ban hành Nghị quyết số 1132/NQ-UBTVQH13 ngày 16/01/2016 hướng dẫn về việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Theo đó, việc xác định dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND ở mỗi đơn vị hành chính phải bảo đảm các tiêu chí: a) Bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ; b) Bảo đảm số lượng hợp lý người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND là người dân tộc thiểu số, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu dân số của từng địa phương; phấn đấu số đại biểu HĐND được bầu là người dân tộc thiểu số không thấp hơn số đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2011-2016 là người dân tộc thiểu số ở đơn vị hành chính đó; c) Phấn đấu đạt tỷ lệ người được giới 2 nhung-bai-hoc-quy-gia-cho-chung-ta. Số 20 (420) - T10/202062 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG thiệu ứng cử đại biểu HĐND là người ngoài Đảng không dưới 10%; người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND là người dưới 35 tuổi không dưới 15% tổng số người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND ở từng cấp; d) Phấn đấu có ít nhất 30% đại biểu HĐND nhiệm kỳ trước tái cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016-2021; đ) Việc phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử ở các đơn vị hành chính cấp dưới, các thôn, tổ dân phố cần bảo đảm tương quan hợp lý về dân số giữa các đơn vị này. Việc phân bổ người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND để bố trí làm đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách được thực hiện căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và phải bảo đảm số lượng đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Ở cấp tỉnh, Chủ tịch HĐND có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; hai Phó Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; mỗi Ban của HĐND cấp tỉnh có ít nhất hai đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Ở cấp huyện, Chủ tịch HĐND có thể là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; hai Phó Chủ tịch HĐND là đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách; mỗi Ban của HĐND cấp huyện có ít nhất một đại biểu HĐND hoạt động chuyên trách. Ở cấp xã, một Phó Chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách. Căn cứ Nghị quyết số 1132/NQ-UBTVQH13, Thường trực HĐND các cấp đã tiến hành dự kiến cơ cấu thành phần, số lượng đại biểu HĐND được bầu của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở địa phương và của các thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố trên địa bàn (đối với cấp xã) và tiến hành điều chỉnh dự kiến phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình hình công tác nhân sự cụ thể ở địa phương. Có thể nói, với vị trí pháp lý là thành viên của cơ quan dân cử, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, công tác nhân sự đại biểu HĐND luôn phải gắn với cơ cấu, thành phần đại biểu, đáp ứng yêu cầu về chính trị - kinh tế - xã hội của mỗi giai đoạn cách mạng. Cơ cấu, thành phần đại biểu HĐND của các khoá đã có sự đổi mới để đáp ứng tốt hơn yêu cầu về chức năng, nhiệm vụ nhưng vẫn còn có những bất cập do khách quan cũng như chủ quan trong công tác cơ cấu. Thực tế trong các cuộc bầu cử đại biểu HĐND, chúng ta thường hướng dẫn tiêu chuẩn là chính, cơ cấu là quan trọng, nhưng khi vận dụng cụ thể thì lại bộc lộ sự lúng túng giữa chính và quan trọng, có những trường hợp nhấn mạnh tiêu chuẩn, trường hợp khác lại nhấn mạnh cơ cấu. 2. Kiến nghị đề xuất trong nhiệm kỳ 2021-2026 Để chuẩn bị tốt công tác bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2021-2026, theo quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, chúng tôi cho rằng, khi tiến hành hướng dẫn về việc dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu HĐND các cấp cần lưu ý một số điểm sau đây: Thứ nhất, cần phải đặt vấn đề cơ cấu trong mối quan hệ với tính đại diện. Các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành quy định đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân.Trong giai đoạn kinh tế tri thức, cần phải hiểu khái niệm đại diện theo hướng ‘đại diện trí tuệ’ chứ không thuần túy là đại diện theo con người. Ví dụ, một đại biểu là chuyên gia về kinh tế nông nghiệp, nông thôn hoàn toàn có thể đại diện cho tiếng nói của bà con nông dân, nông thôn; một nhà nghiên cứu dân tộc học hoàn toàn có thể đại diện, truyển tải tâm tư, nguyện vọng của bà con các dân tộc thiểu số. Thứ hai, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND quy định bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu HĐND là phụ nữ. Thực tế các cuộc bầu cử vừa qua cho thấy, mặc dù tỷ lệ này được bảo đảm nhưng lại không đạt việc nâng cao tỷ lệ nữ đại biểu. Nhiệm kỳ 2016-2021, sau hội nghị hiệp thương lần thứ hai thỏa thuận lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu HĐND thì người ứng cử là phu nữ ở cấp tỉnh lên đến 39,93%; ở cấp huyện là 39,56% và ở cấp xã là 37,71%3. Tuy nhiên, kết quả tỷ lệ nữ đại biểu HĐND trúng cử lại thấp hơn nhiều, cụ thể, cấp tỉnh là 26,56%, cấp huyện là 27,50% và cấp xã là 26,59%4. Lý do là việc không có tỷ lệ phấn đấu trúng cử nên khi bố trí ứng cử viên nữ vào các đơn vị bầu cử không được quan tâm. Điều này dẫn đến, nữ ứng cử viên ứng cử phân tán tại nhiều đơn vị bầu cử và khả năng trung cử không cao. Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi cho rằng, UBTVQH cần dự kiến phấn đấu tỷ lệ nữ đại biểu trúng cử làm cơ sở phân bổ nhiều hơn ứng cử viên nữ để nâng cao tỷ lệ trúng cử. Thứ ba, đối với các vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, người nhiều tuổi rất có uy tín với nhân dân, đó là các già làng, trưởng bản. Vì vậy, nếu lựa chọn và bầu được họ làm đại biểu thì có tác dụng lớn với đồng bào. Người trẻ ứng cử đại biểu HĐND là lứa kế cận quan trọng để từng bước tham gia công việc quản lý nhà nước nhưng chỉ nên bố trí một tỷ lệ hợp lý. Nhiệm kỳ 2016- 2021, tỷ lệ người trẻ tuổi (dưới 35 tuổi) trúng cử đại biểu HĐND các cấp là 8,37% ở cấp tỉnh; 14,42% ở cấp huyện và 26,53% ở cấp xã5. Nhiệm kỳ này, cần quan tâm hơn nữa đến người nhiều tuổi có uy tín với nhân dân, các già làng, trưởng bản, động viên họ tham gia ứng cử đại biểu HĐND cấp xã. Đồng thời, nên nâng tiêu chí về tuổi trẻ lên 40 tuổi để mở rộng diện giới thiệu ứng cử tại các địa phương, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Thứ tư, một số cơ cấu cần quan tâm, phát huy hơn nữa như cơ cấu kết hợp tái cử. Một số nhiệm kỳ HĐND gần đây cho thấy, chỉ có khoảng một phần ba số đại biểu HĐND tái cử đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của HĐND. Sau một nhiệm kỳ hoạt động, đại biểu HĐND sẽ tích lũy được kiến thức và kỹ năng làm nền tảng quan trọng cho nhiệm kỳ tiếp theo. Nếu vì lý do khách quan mà đại biểu không được tiếp tục giới thiệu ứng cử thì không những phải bồi dưỡng, kiến thức kỹ năng cho các đại biểu mới mà còn không phát huy được trí tuệ, kinh nghiệm của những đại biểu đương nhiệm. Trong cuộc bầu cử đại biểu HĐND năm 2016, đại biểu HĐND nhiệm kỳ trước tái cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2016- 2021 đạt tỷ lệ 33,88% ở cấp tỉnh; 32,81% ở cấp huyện và 45,12% ở cấp xã là rất đáng hoan nghênh5. Cần phát huy hơn nữa và đề ra mục tiêu ít nhất là 40% tái cử ở mỗi cấp. Thứ năm, cần quan tâm hơn nữa đến người tự ứng cử đại biểu HĐND. Trong quá trình tăng cường và mở rộng dân chủ trên mỗi lĩnh vực đời sống xã hội thì bầu cử và ứng cử là một quyền cơ bản về chính trị của công dân cũng rất cần được dân chủ nhiều 63Số 20 (420) - T10/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP 3 Trích Báo cáo số 86/BC-HĐBCQG ngày 29/3/2016 của Hội đồng Bầu cử quốc gia về tình hình triển khai công tác chuẩn bị bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. 4 Trích Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 của Hội đồng Bầu cử quốc gia tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. 5 Trích Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 của Hội đồng Bầu cử quốc gia tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG hơn, thực chất hơn. Hiện nay, qua các vòng hiệp thương cho thấy Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã nghiêm chỉnh chấp hành và thực thi pháp luật để mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nếu đủ điều kiện thì được ứng cử đại biểu HĐND, nhưng tỷ lệ người tự ứng cử trúng cử còn thấp. Để cử tri lựa chọn người tiêu biểu, trước khi vào bầu cử thì công việc lấy ý kiến nhận xét, đánh giá của cử tri nơi cư trú là một bước rất quan trọng và thiết thực, đánh gia được tín nhiệm của những cử tri, của nhân dân đã có hiểu biết về người ứng cử. Tự ứng cử để được bầu làm đại biểu HĐND, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân là việc đáng được hoan nghênh6, khuyến khích. Tóm lại, mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu đại biểu là mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau. Để bảo đảm hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, cần lựa chọn những đại biểu đủ tiêu chuẩn có năng lực và điều kiện thực sự tham gia, trên cơ sở bảo đảm cơ cấu, thành phần đại biểu một cách hợp lý. Như vậy, phải trên cơ sở tiêu chuẩn mà xác định cơ cấu, thành phần và lựa chọn nhân sự để bầu làm đại biểu. Có như vậy, cơ quan dân cử mới hoàn thành tốt chức năng là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên n Số 20 (420) - T10/202064 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP nhà, CĐT cần lập 2 tài khoản: (i) Tài khoản nhận trả tiền mua hoặc thuê nhà và (ii) Tài khoản nhận phí bảo trì chung cư. Đối với tài khoản nhận phí bảo trì sẽ thuộc quyền quản lý của CĐT, nhưng tài khoản này sẽ được tổ chức tín dụng phong tỏa toàn bộ. Theo đó, khoản 1 Điều 109 Luật Nhà ở năm 2014 được sửa lại như sau: “Đối với kinh phí bảo trì sẽ được chủ sở hữu trực tiếp nộp vào tài khoản kinh phí bảo trì tại thời điểm nhận bàn giao nhà và được quy định rõ trong hợp đồng mua bán. Tài khoản phí bảo trì sẽ do chủ đầu tư mở tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam và thông báo cho cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà chung cư biết; đồng thời, cơ quan quản lý nhà ở cấp tỉnh nơi có nhà chung cư ra quyết định phong tỏa tài khoản trên”. - Sửa đổi điểm c khoản 2 Điều 36 Thông tư số 02/2016/TT-BXD theo hướng chủ tài khoản tiền gửi phí bảo trì nhà chung cư có mục đích để ở phải có trên hai thành viên Ban quản trị đồng chủ tài khoản. - Sửa đổi điểm b khoản 7 Nghị định số 139/2017/NĐ-CP theo hướng tăng phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến mức tối đa đối với hành vi không bàn giao, bàn giao chậm, bàn giao không đầy đủ hoặc bàn giao không đúng đối tượng nhận phí bảo trì, căn cứ vào phân hạng từng chung cư. Hiện nay, phân hạng chung cư căn cứ vào Thông tư số 31/2016/TT-BXD ngày 30/12/2016 về phân hạng và công nhận hạng nhà chung cư. Mục đích và yêu cầu của Thông tư này nhằm xác định giá trị của nhà chung cư khi thực hiện quản lý. Tổ chức, cá nhân đề nghị công nhận hạng nhà chung cư là BQT: trên 50% tổng số chủ sở hữu nhà chung cư đề nghị hoặc theo đề nghị của cơ quan xử lý vi phạm. Mức phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến mức tối đa căn cứ vào giá trị phí bảo trì mà CĐT đang chiếm giữ trái pháp luật n phí bảo trì ... (Tiếp theo trang 54) 6 Trích Báo cáo số 695/BC-HĐBCQG ngày 19/7/2016 của Hội đồng bầu cử Quốc gia tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
File đính kèm:
- tap_chi_nghien_cuu_lap_phap_so_20_420_ky_2_thang_102020.pdf