Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Số 18 (418) - Kỳ 2, Tháng 9/2020
Tóm tắt:
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá tình hình thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2020 cho thấy dự kiến sẽ có 08/12 chỉ tiêu đạt, vượt và có
04/12 chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch, mặc dù Quốc hội, Chính phủ
cùng chung sức, đồng lòng triển khai các giải pháp đặc biệt, linh
hoạt, thậm chí chưa có tiền lệ để nỗ lực thực hiện “mục tiêu kép”
là phát triển kinh tế - xã hội và phòng, chống dịch bệnh. Những
kết quả đạt được phản ánh tương đối rõ nét và chân thực bức tranh
toàn cảnh kinh tế Việt Nam trong năm 2020 đặt trong bối cảnh
nước ta đã, đang và sẽ tiếp tục chịu tác động tiêu cực do đại dịch
Covid-19 gây ra.
Abstract:
Although the National Assembly and the Government have joined
their forces and unanimously carried out the special, flexible, even
unprecedented solutions to strive to realize the “dual goal” as of
socio-economic development and prevention and controlling of
the disease, the report of the Ministry of Planning and Investment
on an assessment of the enforcement of the Resolution of the
National Assembly on the socio-economic developments in 2020
reveals that it is expected 8 of 12 indices reaching and exceeding
the planned targets and 04 of 12 indices not reaching the planned
targets. The achieved results reflect relatively clearly and
accurately the overall picture of Vietnam’s economy in 2020 under
the circumstance that our country has been and will continue to be
negatively affected by the Covid-19 pandemic.
1. Kinh tế Việt Nam năm 2020: Nỗ lực
vượt qua khó khăn
Từ đầu năm 2020 đến nay, sự bùng phát
của đại dịch Covid-19 ảnh hưởng toàn diện,
sâu rộng và tiếp tục có diễn biến phức tạp,
khó lường. Tình hình chính trị, kinh tế thế
giới và khu vực có nhiều biến động nhanh
chóng, phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai,
lũ lụt, sạt lở, giông lốc, dịch bệnh diễn ra ở
nhiều nơi. Trong bối cảnh hết sức khó khăn,
hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời
ban hành các kết luận, nghị quyết, chỉ thị với
phương châm “chống dịch như chống
giặc”; quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”:
Vừa quyết liệt phòng, chống dịch hiệu quả;
vừa tập trung phục hồi phát triển kinh tế - xã
hội. Trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên
1 Báo cáo số 6219/BC-BKHĐT, ngày 22/9/2020 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tr.7.
hàng đầu, quan trọng nhằm bảo vệ sức khỏe
nhân dân, ổn định xã hội. Có thể thấy, về
cơ bản, các giải pháp điều hành chính sách
kinh tế vĩ mô đã được thực thi đúng hướng
và phù hợp, được nhân dân cả nước đồng
tình, cộng đồng thế giới đánh giá cao
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Số 18 (418) - Kỳ 2, Tháng 9/2020
thể hiện ý kiến về các văn bản luật và các quyết định hành chính của chính quyền bang hoặc chính quyền đô thị. Hầu hết các bang đều áp dụng hình thức trưng cầu ý dân bắt buộc hoặc trưng cầu ý dân không bắt buộc về luật hoặc kết hợp cả hai hình thức này. Ví dụ, các nghị quyết về chi tiêu trên một mức tiền nhất định hoặc về những loại thuế mới ở nhiều bang được quy định phải tiến hành trưng cầu ý dân bắt buộc; ở các bang còn lại thì trưng cầu ý dân có thể thưc hiện nhưng không bắt buộc. Bằng cách đó, người dân Thụy Sỹ có thể tham gia quyết định về các công trình hạ tầng công cộng được xây dựng hoặc tài trợ từ ngân sách công hoặc việc chi tài chính cho các trường học, bệnh viện. Dân chủ trực tiếp ở Hoa Kỳ Hoa Kỳ cũng được coi là quốc gia tiêu biểu trong việc thực hiện DCTT. DCTT cũng được thực hiện ở Hoa Kỳ từ rất lâu và hiện vẫn đang được thực hiện một cách phổ biến hơn nhiều quốc gia khác trên thế giới6. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, DCTT chỉ được thực hiện ở cấp bang. Nước này chưa từng tổ chức các cuộc trưng cầu ý dân (kể cả bắt buộc hoặc chỉ có tính chất tham vấn) ở cấp liên bang. Những nỗ lực áp dụng các thiết chế DCTT ở cấp liên bang cho đến nay vẫn chưa thành công7. Về mặt pháp lý, mặc dù DCTT với tư cách là một nguyên tắc lập pháp chưa được ghi nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ, nhưng lý thuyết về DCTT đã được hiện thực hóa ở nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ. Cuộc đấu tranh cho các quyền dân sự và công bằng xã hội đã diễn ra trong nhiều thế kỷ ở Hoa Kỳ và trong quá trình đó, DCTT đã được vận dụng như là một công cụ pháp lý quan trọng thực hiện quyền lực nhân dân. Ví dụ, thông qua hình thức trưng cầu ý dân, toàn bộ các bang phía Tây của Hoa Kỳ trao quyền bầu cử cho phụ nữ; ở bang Oregon, việc trưng cầu ý dân đã dẫn tới việc xoá bỏ hình phạt tử hình và áp dụng chế độ làm việc 8 tiếng tuần và quy định mức lương tối thiểu của người lao động... Xét về mặt lịch sử, các yếu tố DCTT cũng đã có truyền thống lâu đời ở Hoa Kỳ. Một hình thức được gọi là “town hall meetings” (các cuộc họp ở tòa thị chính) - một loại hình hội nghị công dân, đã được thực hiện từ khi nước này còn là một thuộc địa của Anh. Năm 1778, cuộc trưng cầu ý dân đầu tiên đã được tiến hành ở cấp bang - đó là một cuộc trưng cầu ý dân về Hiến pháp ở bang Massachusetts. Năm 1898, bang South Dakota đã ghi nhận trưng cầu ý dân không bắt buộc và sáng quyền nhân dân 61Số 18 (418) - T9/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP KINH NGHIỆM QUỐC TẾ trong Hiến pháp của mình. Năm 1902, Nghị viện bang Oregon cũng thông qua quy định tổ chức trưng cầu ý dân bắt buộc về sửa đổi Hiến pháp. Năm 1911, bang California cũng ghi nhận các hình thức DCTT. Từ 1898 đến 1918, 24 bang của Hoa Kỳ đã ghi nhận trưng cầu ý dân và sáng quyền nhân dân trong Hiến pháp của mình. Dù vậy, sau năm 1918, việc thiết lập các hình thức DCTT trở lên chậm hơn. Năm 1959, bang Alaska đưa vào áp dụng sáng quyền nhân dân, các bang tiếp theo là Florida vào năm 1972 và Mississippi vào năm 19928 Hiện nay, hầu hết các bang của Hoa Kỳ đều ghi nhận một số hình thức DCTT, thông thường là sáng quyền nhân dân và trưng cầu ý dân. Đối với sáng quyền nhân dân về Hiến pháp và luật, điều kiện cần thiết trong việc thu thập chữ ký có sự khác nhau ở từng tiểu bang, dao động trong khoảng từ 2% đến 15%. Thời gian thu thập chữ ký trung bình là 15 tháng9. Việc bầu cử trực tiếp thống đốc được ghi nhận ở tất cả các tiểu bang. Ở cấp cơ sở thì thị trưởng, cảnh sát trưởng, v.v. cũng được bầu trực tiếp. Tất cả những người do dân trực tiếp bầu ra có thể bị bãi nhiệm theo sáng kiến của Nhân dân. Dân chủ trực tiếp ở một số nước phát triển khác Ở các nước phát triển khác (Anh, Úc, New Zealand, Áo, Thụy Điển, CHLB Đức, Nhật Bản...) hiện đều đã áp dụng những hình thức DCTT phổ biến mà IDEA đã xác định là: trưng cầu ý dân, sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự, bãi miễn đại biểu dân cử10, mặc dù mức độ, cách thức và cả tên gọi của các hình thức DCTT nêu trên ít nhiều khác nhau ở các quốc gia. - Trưng cầu ý dân: Pháp luật ở nhiều nước phát triển trao cho người dân quyền, thông qua cuộc trưng cầu ý dân, trực tiếp quyết định các vấn đề chính trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước hay của địa phương. Ở một số nước như New Zealand, vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân là không bị hạn chế, kể cả trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Thông thường, kết quả trưng cầu ý dân có hiệu lực ràng buộc đối với các cơ quan nhà nước. - Sáng kiến công dân: Pháp luật ở nhiều nước phát triển khác còn trao cho công dân quyền đề nghị đưa một vấn đề quan trọng quốc gia ra quyết định thông qua cuộc trưng cầu ý dân. Điều kiện để thực hiện sáng kiến công dân là người đề xuất phải thu thập đủ một số lượng chữ ký ủng hộ theo luật định. Nội dung bỏ phiếu khá đa dạng như: đề xuất ban hành mới hoặc sửa đổi văn bản pháp luật, hay vấn đề quan trọng của quốc gia, cộng đồng. Thông thường kết quả của sáng quyền công dân có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước. - Sáng kiến chương trình nghị sự: Pháp luật của nhiều nước phát triển cũng trao cho người dân quyền đề xuất đưa một vấn đề cụ thể vào chương trình làm việc của cơ quan lập pháp. Tương tự như sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự cần nhận được một số lượng tối thiểu chữ ký ủng hộ để có thể được chấp nhận bởi cơ quan lập pháp. - Bãi nhiệm đại biểu dân cử: Pháp luật ở nhiều nước phát triển trao cho người dân quyền bãi miễn đại biểu dân cử. Theo nghiên cứu của tổ chức IDEA, hiện 8 Michael Efler, 100 Jahre direkte Demokratie in den USA, Themenfokus/ Demokratie/21/cmd.14/audience.d. 9 Ralf-Uwe Beck und Daniel Schily, Die direkte Demokratie in den USA, 2011. 10 Viginia Beramandi, Andru Elis (2014), DCTT: Sổ tay IDEA Quốc tế, (Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Chủ trì bản tiếng Việt), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Số 18 (418) - T9/202062 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP KINH NGHIỆM QUỐC TẾ nay, các nước phát triển trên thế giới ghi nhận hai hình thức bãi miễn chính theo mức độ tham gia của người dân trong quá trình này: (1) bãi miễn đầy đủ - là bãi miễn đòi hỏi phải có sự tham gia của người dân cả ở giai đoạn đề xuất và cả giai đoạn bỏ phiếu thông qua; (2) bãi miễn hỗn hợp - là bãi miễn đòi hỏi sự tham gia của người dân ở giai đoạn đề xuất, hoặc giai đoạn bỏ phiếu thông qua. Cả hai hình thức này đều có thể sử dụng ở cấp quốc gia, khu vực và địa phương, cũng có thể được sử dụng cho cả các quan chức của cơ quan hành pháp hoặc các thành viên được bầu của cơ quan lập pháp11. Dân chủ trực tiếp ở một số nước Đông Nam Á DCTT cũng được đề cập trong Hiến pháp của nhiều quốc gia thuộc Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Ví dụ, Hiến pháp Indonesia (1945), Malaysia (1957), Brunei (1959); Hiến pháp Myanmar (2008), Hiến pháp Camphuchia năm 1993; Hiến pháp Lào năm 2015; Hiến pháp Singapore năm 1965; Hiến pháp Thái Lan (2017). Trong số các bản Hiến pháp này, ngoại trừ Brunei, Hiến pháp của các nước còn lại đều thể hiện và bảo đảm cho người dân được hưởng quyền trưng cầu ý dân. - Hiến pháp Campuchia và Thái Lan quy định các quyền công dân trong lĩnh vực chính trị như quyền không phân biệt giới tính khi tham gia vào các hoạt động của chính quyền; quyền đề xuất ý kiến để trưng cầu ý dân về hoạt động chính trị, văn hoá, kinh tế, các vấn đề xã hội. - Hiến pháp năm 2017 của Thái Lan nhấn mạnh đến vấn đề tham nhũng, cơ chế kiểm soát tham nhũng, trong đó khẳng định vai trò của người dân tham gia chống tham nhũng. - Hiến pháp Indonesia xác định nguyên tắc công dân có quyền bình đẳng trong việc tham gia chính quyền12... 2. Một số gợi mở cho Việt Nam Qua nghiên cứu các hình thức DCTT được vận dụng ở một số quốc gia trên thế giới, có thể rút ra một số gợi mở cho Việt Nam như sau: Thứ nhất, trên thế giới ngày nay, nền dân chủ hiện đại là nền dân chủ kết hợp giữa dân chủ đại diện và DCTT. Không một quốc gia nào có thể áp dụng thuần tuý các hình thức DCTT vì những trở ngại về tài chính và tổ chức trong một xã hội hiện đại mà các vấn đề của đất nước và cộng đồng ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp hơn. Nhìn chung, hầu hết các vấn đề thông thường ở các quốc gia được người dân ủy thác cho cơ quan đại diện (nghị viện) giải quyết, chỉ có những vấn đề quan trọng quốc gia và những vấn đề ở cấp cơ sở mới được quyết định bằng các hình thức DCTT. Bên cạnh đó, bãi miễn đại biểu dân cử cũng được thực hiện một cách trực tiếp bởi cử tri - cũng được xem là một hình thức DCTT, dưới góc độ người dân trực tiếp bỏ phiếu quyết định một vấn đề quan trọng quốc gia, trong trường hợp này là quyết định bầu hay bãi miễn đại biểu dân cử. Thứ hai, về cơ bản, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua dân chủ đại diện. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi vấn đề đều cần được quyết định bởi cơ quan đại diện nhân dân. Có những vấn đề quan trọng quốc gia như Hiến pháp, những vấn đề ở cơ sở trực tiếp tác động đến người dân, cần phải phản ánh được chính xác và đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, chỉ có thể đạt được thông qua DCTT. Bởi lẽ, thông qua 11 Viginia Beramandi, Andru Elis (2014), DCTT: Sổ tay IDEA Quốc tế, (Đào Trí Úc, Vũ Công Giao, Chủ trì bản tiếng Việt), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 12 Hiến pháp Indonesia tại trang (Xem tiếp trang 64) THỂ LỆ GỬI BÀI ĐĂNG TạP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp trân trọng thông báo tới các Quý tác giả thể lệ gửi bài đăng trên Tạp chí như sau: 1. Bài viết gửi đăng Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp là các bài viết có nội dung mới, thể hiện kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn và giới thiệu kinh nghiệm trong nước, nước ngoài về hệ thống chính trị, về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về pháp luật và chính sách (kinh tế, xã hội, chính trị, đối ngoại và quốc phòng - an ninh...). Tạp chí đặc biệt ưu tiên và chú trọng những bài viết góp ý vào các dự án luật, pháp lệnh; bài viết có tính phản biện khoa học, phân tích tác động đa chiều của các chính sách; bài viết có tính ứng dụng cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. 2. Bài viết gửi đăng Tạp chí là bài chưa từng công bố trên bất kỳ phương tiện báo chí, xuất bản nào khác. Tác giả là chủ sở hữu quyền tác giả của bài viết và chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung khoa học, cũng như các thông tin, tư liệu, số liệu, biểu đồ, trong bài viết. 3. Bài viết trình bày thành các phần, các mục rõ ràng, mạch lạc và hợp lý. Bài viết có đầy đủ tên bài (không quá 20 từ), phần tóm tắt (sapo) phản ánh các đóng góp mới (khoảng 8 dòng, bằng tiếng Việt và khuyến khích bản dịch tiếng Anh), từ khóa (3-5 từ, phản ánh nội dung chính của bài viết, khuyến khích dịch tiếng Anh). Nếu bài viết được chia thành các mục và tiểu mục, cần đánh số theo thứ tự: 1.; 1.1.; 1.1.1.;... 4. Mỗi bài viết có độ dài tối thiểu 6 trang, tối đa 12 trang, cỡ chữ 12, cách dòng 1.2 lines, cách đoạn 3 pt, font chữ Unicode (Times New Roman, được đánh máy vi tính định dạng khổ A4, bao gồm 1 bản điện tử (bắt buộc) và 1 bản in (nếu có). 5. Tên riêng của người, địa phương, thuật ngữ tiếng nước ngoài để nguyên văn (phiên dịch tiếng Việt kèm theo) trừ những tên đã được Việt hóa (như Trung Quốc, Nhật Bản...). 6. Tài liệu tham khảo và cách thức trích dẫn: Tài liệu tham khảo: Khi sử dụng tài liệu tham khảo trong bài viết, chú thích đầy đủ tên tài liệu, tác giả của tài liệu, ngày, tháng xuất bản (đăng tải) tài liệu, số trang trong tài liệu được trích dẫn theo thứ tự sau đây: - Đối với tài liệu là sách: Tên tác giả, tên sách, nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản, số trang trong sách được trích dẫn. Ví dụ: Đỗ Văn Đại - Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010, tr.583. - Đối với tài liệu là các bài tạp chí: Tên tác giả, tên bài viết, tên tạp chí, số xuất bản, năm và tháng xuất bản, số trang trong Tạp chí được trích dẫn. Ví dụ: Lê Văn Cảm, “Sửa đổi Hiến pháp năm 1992- cơ cấu chung và các quy định cơ bản về tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước”, Nghiên cứu Lập pháp, số 22, 11/2010, tr.15. - Đối với tài liệu trên website: Tên tác giả, tên bài viết, địa chỉ truy cập, ngày/tháng/năm truy cập. Ví dụ: Trọng Mạnh, Công chứng sai, phải bồi thường, 63Số 18 (418) - T9/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 18 (418) - T9/202064 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP truy cập ngày 15/03/2012. Cách thức trích dẫn trong bài: Trích dẫn nguyên văn phải để trong dấu ngoặc kép. Trích dẫn gián tiếp phải bảo đảm không sai lệch ý của tác giả được trích dẫn. 7. Bài viết ghi rõ: Họ và tên tác giả, học vị, chức danh khoa học, chức vụ, cơ quan/đơn vị nơi làm việc (nếu có), điện thoại liên hệ, thư điện tử, địa chỉ nhận báo biếu và số tài khoản cá nhân (nếu có) của tác giả để thuận tiện cho Tạp chí liên lạc khi trao đổi thông tin. 8. Tác giả có thể gửi bài viết cho Tạp chí theo các cách thức sau: - Gửi bản điện tử qua địa chỉ thư điện tử của Tạp chí (nclp@quochoi.vn); - Gửi bản in qua bưu điện tới địa chỉ tòa soạn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp - 35 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội; - Trực tiếp đưa đến Tòa soạn (theo địa chỉ trên). 9. Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi nhận được bài viết, Tạp chí sẽ thông báo cho Tác giả việc sử dụng hay không sử dụng bài viết qua điện thoại hoặc thư điện tử. Tạp chí không trả lại bản thảo nếu bài viết không được sử dụng. 10. Sau khi gửi bài, nếu muốn chuyển bài viết sang các báo, tạp chí khác, tác giả thông báo lại để Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp biết. 11. Tác giả có bài viết đăng tải trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp được trả nhuận bút theo quy định và 01 số tạp chí biếu. 12. Bài viết được đăng trên Tạp chí đồng thời sẽ được đưa lên Trang thông tin điện tử của Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (địa chỉ: www.lapphap.vn)./. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP DCTT, ý chí, nguyện vọng của nhân dân được phản ánh một cách nguyên bản nhất trong các quyết định chính trị. Thứ ba, trong các nền dân chủ ngày nay, việc lựa chọn sử dụng hình thức dân chủ đại diện hay hình thức DCTT khi quyết định chính sách cần phải tính đến việc khắc phục những hạn chế và phát huy những ưu điểm của từng loại hình dân chủ này. Việc thiết lập thêm các yếu tố của DCTT giúp tăng cường quyền lực trực tiếp của người dân để khắc phục những khiếm khuyết, hạn chế của dân chủ đại diện. Trong nhiều trường hợp, các hình thức DCTT có thể bổ sung cho dân chủ đại diện. Thứ tư, hình thức DCTT điển hình là “trưng cầu ý dân” được Hiến pháp, pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và được sử dụng trên thực tế phổ biến hơn so với các hình thức DCTT khác. Thứ năm, nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng hiệu quả hình thức “sáng quyền nhân dân”. Ở đây, sáng quyền không bắt nguồn từ nghị viện hay chính phủ mà từ người dân. Như vậy, nó có thể được coi là yếu tố động lực hoặc là gia tốc của DCTT. Đây là những kinh nghiệm quý, là một gợi ý đáng quan tâm đối với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước tan CÁC HÌNH THỨC DÂN CHỦ... (Tiếp theo trang 62)
File đính kèm:
- tap_chi_nghien_cuu_lap_phap_so_18_418_ky_2_thang_92020.pdf