Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019

1. Thực trạng triển khai cơ chế tự chủ của đơn

vị sự nghiệp công lập tại các tỉnh được khảo sát

- Về công tác chỉ đạo triển khai cơ chế tự chủ đối

với các ĐVSNCL

UBND các tỉnh, thành phố đã ban hành nhiều

văn bản chỉ đạo điều hành để thực hiện Nghị định

số 16/2015/NĐ-CP, sắp xếp đổi mới ĐVSNCL trên

địa bàn như: Thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực

hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP; ban hành Kế

hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/

NĐ-CP; ban hành văn bản hướng dẫn các đơn vị

thực hiện giao quyền tự chủ đối với các ĐVSNCL;

ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số

19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành

Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống

tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của các ĐVSNCL; ban hành Kế hoạch

nâng mức tự chủ tài chính các ĐVSNCL; rà soát,

xây dựng danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử

dụng NSNN.

- Về kiện toàn tổ chức các ĐVSNCL

Các ĐVSNCL trên địa bàn hầu hết các tỉnh

đều đã thực hiện chức năng, nhiệm vụ được cấp

có thẩm quyền giao, giải quyết kịp thời các nhiệm

vụ chuyên môn của từng ngành, từng lĩnh vực,

đáp ứng chức năng cơ bản trong quá trình cung

cấp dịch vụ công. Các đơn vị sự nghiệp từng bước

được kiện toàn theo hướng dẫn của cấp có thẩm

quyền, vị trí việc làm bước đầu đã cơ bản đảm

bảo số lượng, định mức, cũng như NSNN cấp

đáp ứng yêu cầu vận hành, thực hiện chức năng,

nhiệm vụ. Những biện pháp để tăng cường tính

hiệu quả trong việc sử dụng biên chế được triển

khai, áp dụng; việc tuyển dụng, sử dụng và quản

lý viên chức, cũng như quản lý tài chính được đi

vào nền nếp. Một số ít đơn vị hoạt động thông qua

phương thức tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao trong

hoạt động tổ chức, tài chính của mình, nâng cao

được hiệu quả hoạt động và tạo được nguồn thu,

góp phần quan trọng cho việc tăng thu nhập tiền

công, tiền lương và nâng cao mức sống của viên

chức, người lao động trong ĐVSNCL.

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 1

Trang 1

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 2

Trang 2

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 3

Trang 3

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 4

Trang 4

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 5

Trang 5

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 6

Trang 6

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 7

Trang 7

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 8

Trang 8

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 9

Trang 9

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 72 trang xuanhieu 8480
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019

Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - Số 136 - 2/2019
nh giá tác động môi trường (EIA), SEA tập trung 
vào việc lập và sử dụng các báo cáo về tác động môi 
trường vào trong các kế hoạch, chương trình trong 
khi kết hợp sự tham gia của tất cả các thành viên 
trong xã hội.
Vận dụng SEA để thực hiện kiểm toán liên 
quan đến SDG có thể được củng cố bởi ISSAI 5110 
“Hướng dẫn thực hiện kiểm toán hoạt động trên 
khía cạnh môi trường”. ISSAI 5110 gợi ý rằng các 
SAI tiến hành kiểm toán hoạt động về các chương 
trình môi trường và chú ý đến khía cạnh môi trường 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 71Số 136 - tháng 2/2019
trong các chương trình của Chính phủ. Phân biệt 
các tác động môi trường và xã hội với hiệu quả và 
hiệu lực kinh tế là một lợi thế trong việc sử dụng 
công cụ SEA với các quy định pháp luật liên quan. 
Nói chung, các bước triển khai SEA cần bao 
gồm:
• Đánh giá tính khả dụng của SEA trong kiểm 
toán hoạt động;
• Đánh giá hiệu quả và hiệu lực của SEA bằng 
các công cụ liên quan; 
• Thực hiện cuộc kiểm toán đặc biệt sử dụng 
SEA;
• Phát triển tiêu chí sử dụng SEA (từ khía cạnh 
môi trường) trong kiểm toán báo cáo tài chính của 
Chính phủ.
Ở Indonesia, việc áp dụng SEA được chính 
thức hỗ trợ bởi Luật số 32/209 về bảo vệ và quản 
lý môi trường, yêu cầu các tổ chức phải xem xét 
đến SEA khi trình bày các kế hoạch, chính sách và 
chương trình. SEA cũng có thể được sử dụng để 
thay đổi hay điều chỉnh các phiên bản trước đó. 
Theo nguyên tắc của tổng thống, Kế hoạch phát 
triển trung hạn Indonesia giai đoạn 2015 – 2019 
được sửa đổi để phù hợp với các SDG và phát triển 
một kế hoạch hành động quốc gia về SDG. Quy 
tắc này cũng được áp dụng cho các chính quyền 
cấp khu vực. Các điều kiện cơ bản này tạo ra một 
lợi thế khác biệt trong triển khai SEA ở Indonesia. 
ủy ban Kiểm toán Indonesia đã đưa SEA vào trong 
phạm vi kiểm toán hoạt động và tài chính và đồng 
thời ban hành chuẩn mực kiểm toán tài chính dựa 
trên yếu tố môi trường.
Kiểm toán nhà nước Thái Lan
Từ năm 2005, Cơ quan Kiểm toán nhà nước 
Thái Lan (SAO), đã chịu trách nhiệm thực hiện 
các cuộc kiểm toán môi trường đầu tiên và SAO 
cũng đã đưa các vấn đề môi trường, bao gồm phát 
triển bền vững vào các vấn đề ưu tiên. Thái Lan tiến 
hành ba bước tiếp cận trong việc thực hiện kiểm 
toán hoạt động về môi trường và hỗ trợ phát triển 
bền vững quốc gia và toàn cầu của SAO.
Giai đoạn 1: Tiến hành nghiên cứu
Trong lịch sử, SAO tiến hành kiểm toán hoạt 
động về môi trường sử dụng nguyên tắc 3Es – tính 
kinh tế, hiệu quả và hiệu lực. SAO được giao nhiệm 
vụ giám sát việc tuân thủ của Chính phủ về luật 
pháp, các quy tắc, quy định và nghị quyết của Hội 
đồng Bộ trưởng về môi trường. 
Hành trình nâng cao chất lượng kiểm toán hoạt 
động về môi trường bắt đầu từ năm 2005, khi mà 
Quỹ Kiểm toán toàn diện Canada (CCAF) hỗ trợ 
cho SAO phát triển kiểm toán môi trường thông 
qua các học bổng và các khóa thực tập. TS Sirin 
Phankasem, Phó Tổng Kiểm toán Thái Lan được 
lựa chọn tham gia chương trình này và trong quá 
trình học ông đã xây dựng một bản chiến lược về 
“Hướng tới phát triển bền vững: tập trung vào 
kiểm toán môi trường”. Chiến lược này vạch ra các 
chiến lược để tích hợp các vấn đề môi trường vào 
công tác kiểm toán của SAO một cách đầy đủ hơn, 
nhấn mạnh vấn đề phối hợp nhân lực ở tất cả các 
cấp và sự hỗ trợ liên tục về mặt chính sách để đạt 
được sự phát triển dài hạn về môi trường và phát 
triển bền vững. 
Chiến lược này lần đầu tiên được triển khai 
trong phạm vi kiểm toán hoạt động về môi trường 
của SAO về ô nhiễm tiếng ồn gây ra bởi sân bay 
Suvarnabhumi vốn từ năm 2006 đã gây ảnh hưởng 
nghiêm trọng tới các cộng đồng dân cư gần đó. Tổ 
chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) cho 
biết giải quyết vấn đề tiếng ồn sân bay đòi hỏi phải 
xác định được vấn đề một cách rõ ràng và có biện 
pháp giảm thiểu tiếng ồn với chi phí hợp lý.
Biện pháp được đưa ra bao gồm: (1) Sử dụng 
máy bay phát ra tiếng ồn ít hơn; (2) có kế hoạch 
sử dụng và quản lý đất đai, (3) hạn chế tiếng ồn và 
(4) xem lại các thủ tục hoạt động cũng như vùng 
cấm. ICAO đưa ra các chính sách liên quan đến 
từng biện pháp và thiết lập một hệ thống để thu phí 
từ các hoạt động gây ồn để đền bù cho những vùng 
dân cư bị ảnh hưởng.
SAO bắt đầu bằng việc đánh giá các nỗ lực để 
giải quyết các vấn đề liên quan đến tiếng ồn. Mục 
tiêu kiểm toán bao gồm đánh giá các biện pháp để 
giảm thiểu các vấn đề mà người dân sống gần sân 
KINH NGHIEÄM NÖÔÙC NGOAØI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN72 Số 136 - tháng 2/2019
bay gặp phải do mức tiếng ồn tăng cao; xác định các 
vấn đề và rào cản trong việc giải quyết tác động của 
tiếng ồn; và đưa ra các kiến nghị giải quyết. SAO có 
3 phát hiện kiểm toán: Trong khi người dân bị ảnh 
hưởng bởi tiếng ồn sân bay phải được bồi thường 
thì khoản tiền này đã bị trì hoãn rất lâu; ngân sách 
để hỗ trợ người dân thoát khỏi mức ô nhiễm tiếng 
ồn ngày càng tăng cũng đã tăng cao bất thường và 
các biện pháp để giải quyết ô nhiễm tiếng ồn sân 
bay đã không được triển khai. 
Giai đoạn 2: Củng cố kiểm toán hoạt động về môi 
trường
Năm 2010, Ngân hàng Thế giới đã có một khoản 
tài trợ cho SAO, và SAO lựa chọn kiểm toán hoạt 
động môi trường là lĩnh vực cần cải thiện và yêu 
cầu hỗ trợ kỹ thuật từ Cơ quan kiểm toán Estonia. 
Sau đó, SAO tổ chức một hội thảo quốc tế về kiểm 
toán môi trường, ở đó, các kiểm toán viên của SAI 
Estonia đã chia sẻ kinh nghiệm trong việc nhận 
diện và hiểu rõ về khái niệm phát triển bền vững 
và thực hiện kiểm toán hoạt động về môi trường.
Với sự hỗ trợ vốn từ quỹ GIZ của Cộng hòa Liên 
bang Đức và hỗ trợ chuyên môn của INTOSAI 
và ASOSAI, SAO đã tổ chức một cuộc kiểm toán 
chung trong khu vực về vấn đề nguồn nước, tập 
trung vào lưu vực sông Mê kông. Hoạt động này 
vào năm 2012 là bước đầu hướng tới việc phát triển 
và triển khai kiểm toán chung của các SAI (Cơ 
quan Kiểm toán Vương quốc Campuchia, Kiểm 
toán nhà nước Lào, Kiểm toán nhà nước Thái Lan 
và Kiểm toán nhà nước Việt Nam). ủy ban Kiểm 
toán Indonesia và Cơ quan kiểm toán Malaysia hỗ 
trợ chuyên môn cho cuộc kiểm toán chung này. 
Mục đích của cuộc kiểm toán là đảm bảo rằng 
nước và các nguồn tài nguyên thiên nhiên liên 
quan đến nước của lưu vực sông Mê kông được 
quản lý tốt và sử dụng đảm bảo phát triển bền vững 
và công bằng – mục đích khó khăn nhưng đã đạt 
được. Chính phủ các nước dọc lưu vực sông Mê 
kông đã thiết lập nên một khuôn khổ chung về việc 
quản lý nguồn nước xuyên biên giới.
Kinh nghiệm kiểm toán của SAO đã được chia 
sẻ cho các SAI và các ý kiến phản hồi được sử dụng 
để nâng cao hơn nữa và củng cố thêm kiểm toán 
hoạt động về môi trường. 
Giai đoạn 3: Thành lập Vụ kiểm toán môi trường
SAO thành lập Vụ Kiểm toán môi trường (EAO) 
vào năm 2017, tập trung vào nhiệm vụ kiểm toán 
hoạt động và kiểm toán các tác động môi trường. 
EAO sẽ xem xét lại các hợp đồng, các dự án của 
khu vực công, nghiên cứu và đưa ra kiến nghị về 
các chương trình của Chính phủ có nguy cơ gây 
ra tác hại môi trường. EAO cũng sẽ tiến hành các 
cuộc kiểm toán tuân thủ để xem xét mức độ tuân 
thủ của các đơn vị được kiểm toán đối với các kiến 
nghị của EAO và các cam kết môi trường mang 
tính quốc tế. Phát triển kiểm toán hoạt động môi 
trường trong nỗ lực chuẩn bị cho các mục tiêu phát 
triển bền vững là nhiệm vụ chủ yếu và trước hết 
trong sứ mệnh của SAO. 
Theo UNEP (ủy ban phụ trách các vấn đề môi 
trường của LHQ) thì hơn một nửa các SDG tập 
trung vào các vấn đề môi trường hoặc giải quyết 
vấn đề phát triển bền vững các nguồn lực. Với hơn 
86 mục tiêu liên quan đến phát triển bền vững 
môi trường và trong từng mục tiêu của 17 SDG 
liên quan đến ít nhất 1 trong số các mục tiêu này, 
KTNN Thái Lan tiếp tục nghiên cứu việc kiểm toán 
triển khai SDG với nỗ lực phát triển tương lai các 
cuộc kiểm toán hoạt động về môi trường liên quan 
đến SDG.
Kiểm toán nhà nước Ba Lan
Hiến pháp của Cộng hòa Ba Lan xem phát triển 
bền vững là một trong các nguyên tắc và nhiệm vụ 
quan trọng nhất của đất nước. Điều 5 Hiến pháp 
Ba Lan kêu gọi sự bảo vệ độc lập chủ quyền, thống 
nhất và đảm bảo sự tự do, quyền và an toàn của 
mọi công dân. Nó cũng đòi hỏi các di sản của quốc 
gia phải được bảo tồn và bảo vệ môi trường quốc 
gia trên cơ sở các nguyên tắc phát triển bền vững. 
Cùng lúc đó, Điều 74 yêu cầu các cơ quan nhà 
nước phải đảm bảo các chính sách có mục đích 
đảm bảo an toàn sinh thái cho các thế hệ hiện tại 
và tương lai. 
Ba Lan đã cam kết sẽ triển khai chương trình 
nghị sự 2030 của LHQ và các mục tiêu phát triển 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 73Số 136 - tháng 2/2019
bền vững, một nhiệm vụ đòi hỏi sự phối hợp từ 
tất cả các bên liên quan. Một mô hình phát triển 
mới của Ba Lan, vạch ra chiến lược phát triển của 
đất nước, đáp ứng kỳ vọng của Chương trình nghị 
sự 2030 và phù hợp với tầm nhìn LHQ vì một thế 
giới không đói nghèo, nơi mà mọi người dân đều 
có cơ hội được hưởng lợi từ sự phát triển. Bộ Phát 
triển kinh tế Ba Lan cùng với Bộ Doanh nghiệp và 
Công nghệ thực hiện vai trò chung trong việc triển 
khai SDG. Trong khi các SDG được triển khai ở 
cấp độ Chính phủ, thì các SAI với thẩm quyền và 
chức năng, tập trung vào việc giám sát cách mà các 
cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ quốc gia đối 
với SDG. SAI Ba Lan (NIK) kiểm tra quá trình này 
tuân theo ISSAI 5130 “Phát triển bền vững: vai trò 
của các Cơ quan kiểm toán tối cao” và ISSAI 12 
“Giá trị và lợi ích của cơ quan kiểm toán tối cao – 
tạo ra sự khác biệt cho đời sống của công dân” 
NIK tiến hành kiểm toán “Chuẩn bị triển khai 
Mục tiêu phát triển bền vững theo chương trình 
nghị sự 2030” ở Ba Lan vào đầu năm 2018. Sử dụng 
chuẩn mực kiểm toán quốc tế, dựa trên chuẩn mực 
ISSAI và một cách thức riêng biệt do INTOSAI ban 
hành, NIK kiểm toán việc liệu mô hình phát triển 
của Ba Lan được vạch ra trong Chiến lược phát 
triển quốc gia có đáp ứng với kỳ vọng của Chương 
trình nghị sự 2030 và sự chuẩn bị quản trị quốc gia 
trong việc triển khai SDG.
Theo như phát hiện kiểm toán của NIK, các hoạt 
động hiệu quả ở cấp quốc gia bước đầu đã (1) đưa 
các SDG vào chính sách phát triển quốc gia, (2) xây 
dựng nên cấu trúc thể chế phù hợp, (3) chuẩn bị 
cho việc giám sát quá trình triển khai SDG.
Chiến lược quốc gia của Ba Lan bao gồm các 
mục tiêu phù hợp với SDG. Chính phủ đã xây dựng 
mối liên kết với các bên liên quan chính để cùng 
quản lý quá trình phát triển và tạo ra phương thức 
triển khai chung. Hơn nữa, các chỉ số đo lường 
các nỗ lực này cũng đã được lựa chọn. Chiến lược 
quốc gia cũng được tích hợp với khung tài chính 
quốc gia. Các biện pháp được thực hiện phù hợp 
với cách tiếp cận chung của Chính phủ và nguyên 
tắc của chương trình nghị sự là không để ai bị bỏ 
lại phía sau. Trong suốt cuộc kiểm toán, các nghiên 
cứu xác định mẫu thực hành tốt được áp dụng ở 
các nước – các mẫu thực hành mang lại kết quả tích 
cực – ví dụ như mở rộng cách thức tiếp cận cấp độ 
địa phương thông qua các hoạt động tình nguyện 
được tiến hành bởi Chính phủ trung ương và các 
biện pháp được thực hiện nhằm tăng cường nhận 
thức của công chúng về SDG. 
Trong báo cáo kiểm toán, NIK trình bày một số 
nhận xét về các đơn vị được kiểm toán, trong đó 
đưa ra kiến nghị cho đối tượng kiểm toán về việc 
tiếp tục và tăng cường các hoạt động bảo đảm cho 
việc đạt được các SDG một cách hiệu quả và nhất 
quán ở tầm nhìn xa hơn. Ví dụ như:
• Tăng cường quan hệ đối tác xã hội để triển 
khai SDG nhằm thu hút được sự tham gia rộng 
khắp; 
• Thúc đẩy Chương trình nghị sự 2030 và các 
SDG tới các môi trường và nhóm xã hội khác nhau 
(cả trên website các bộ ngành);
• Tăng cường việc điều chỉnh các chỉ tiêu quốc 
gia vào danh sách các chỉ tiêu được UN thông qua 
nhằm tạo thuận lợi cho việc đo lường tiến độ; 
• Tiến hành đánh giá quá trình trên cơ sở 
thường xuyên, liên tục (ở cấp độ quốc gia và địa 
phương) nhằm gia tăng gia trị bằng việc duy trì lợi 
ích xã hội trong phát triển bền vững và tạo cơ sở 
cho các khuyến nghị về các hành động cần thiết ở 
các cấp độ khác nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Strategic environmental assessments to 
address sustainability, Blucer W.Rajagukguk 
và Rezza Rinova Tohir, Ủy ban Kiểm toán 
Indonesia;
2. Sirin Phankasem, Phó Tổng Kiểm toán nhà 
nước Thái Lan và Sutthi Suntharanurak, 
Kiểm toán viên cao cấp, Vụ Hợp tác quốc 
tế, KTNN Thái Lan;
3. Beata Blasiak Nowak, Chuyên gia kinh tế và 
Marzena Rajczewska, Chuyên gia Kỹ thuật, 
Cơ quan kiểm toán tối cao Ba Lan.
VAÊN BAÛN MÔÙI 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN74 Số 136 - tháng 2/2019
COÂNG VAêN 7565/TCHQ-TxNK NGAØY 25 THAÙNG 12 NAêM 
2018 CUÛA TOÅNG CUÏC HAÛI QUAN TRAÛ LÔØI CAÙC NOÄI DUNG 
VÖÔÙNG MAéC TAÏI THOÂNG TÖ 39/2018/TT-BTC
Trong CV 7565, Tổng cục Hải quan trả lời một số vướng mắc của các Cục Hải quan tỉnh, thành phố trong quá trình triển khai Thông 
tư 39/2018/TT-BTC ngày 20 tháng 4 năm 2018 
(“TT 39”). Một trong số các vướng mắc đó là việc 
miễn thuế nhập khẩu đối với phế liệu, phế phẩm 
chuyển tiêu thụ nội địa. Theo đó:
▶ Từ ngày 1 tháng 9 năm 2016 đến trước ngày 
5 tháng 6 năm 2018: Việc miễn thuế nhập khẩu 
đối với phế liệu, phế phẩm chuyển tiêu thụ nội 
địa thực hiện theo Khoản 4, Điều 10, Nghị định 
số 134/2016/NĐ-CP như sau: “Phế liệu, phế phẩm 
và nguyên liệu, vật tư dư thừa đã nhập khẩu để gia 
công không quá 3% tổng lượng của từng nguyên 
liệu, vật tư thực nhập khẩu theo hợp đồng gia công 
được miễn thuế nhập khẩu khi tiêu thụ nội địa, 
nhưng phải kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, thuế 
tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường (nếu có) 
cho cơ quan hải quan.”
▶ Từ ngày 5 tháng 6 năm 2018: Việc xử lý thuế 
đối với phế liệu, phế phẩm được xác định trên cơ sở 
định mức thực tế sản xuất của doanh nghiệp theo 
quy định tại Khoản 35, Điều 1, TT 39.
Bản tin do Ernst &Young Việt Nam cung cấp
PHIếU ĐẶT MUA
TẠP CHí NGHIÊN CỨU KHOA HọC KIỂM TOáN
Đơn vị: ................................................................................
Địa chỉ: ................................................................................
Số điện thoại: .......................... Fax: ...................................
Mã số thuế: .........................................................................
Số tài khoản: .......................................................................
tại: .......................................................................................
Đặt mua TẠP CHí NGHIÊN CỨU KHOA HọC KIỂM TOáN
Với số lượng: ............... cuốn/kỳ xuất bản
Số tiền: 9.500 đồng/cuốn x ...... = ........... ... /kỳ xuất bản
KíNH GỬI:
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU kHOA HỌC kIỂM TOÁN
Địa chỉ: Số 111 Trần Duy Hưng - Cầu Giấy - Hà Nội
Tel: 024 6282 2213
Website: khoahockiemtoan.vn
Email: tcnckhkt@yahoo.com.vn /
tapchinghiencuukhoahoc@sav.gov.vn 
Số tài khoản: 0451000375016 tại NH Ngoại Thương Hà Nội,
Chi nhánh Thành Công
... Ngày ... tháng ... năm 20........
 Thủ trưởng đơn vị

File đính kèm:

  • pdftap_chi_nghien_cuu_khoa_hoc_kiem_toan_so_136_22019.pdf