Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam - Số 47 - Tháng 1+2+3/2021
Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đang đối mặt với cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu với việc thực hiện mục tiêu của Paris COP 21 là đảm bảo sự tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu từ nay đến 2.100 ở mức dưới 2°C bằng biện pháp giảm sản xuất và sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí), nguyên nhân phát ra 2/3 lượng khí nhà kính (CO2) mà thay thế bằng các nguồn NLTT như gió, mặt trời, sinh khối. Riêng đối với Việt Nam, là đất nước sẽ chịu tác động khá trầm trọng của biến đổi khí hậu, lại có tiềm năng nguồn NLTT (thủy điện nhỏ, gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt) phong phú, trong khi các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước như thủy điện vừa và lớn, than, dầu khí đều ngày càng cạn kiệt và đang biến từ một nước xuất khẩu năng lượng tịnh thành nước nhập khẩu tịnh thì việc tăng cường phát triển các nguồn NLTT có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch, vừa góp phần giảm phát thải khí nhà kính trong mục tiêu toàn cầu vừa đảm bảo an ninh năng lượng phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - Xã hội của đất nước. Hơn nữa, tại Paris COP 21, Chính phủ Việt Nam cũng đã cam kết với cộng đồng quốc tế sẽ giảm 8% lượng khí nhà kính CO2 so với kịch bản phát triển thông thường vào năm 2030 và có thể cắt giảm đến 25% nếu nhận được sự hỗ trợ quốc tế từ sự hợp tác song phương và đa phương. Cụ thể, tiềm năng các nguồn NLTT Việt Nam: Thủy điện nhỏ: được đánh giá là dạng NLTT khả thi nhất về mặt kinh tế - tài chính. Theo đánh giá của UNIDO, Việt Nam là nước đứng đầu trong khối ASEAN trong việc khai thác nguồn thủy điện nhỏ (TĐN) công suất đến 10MW (Việt Nam quy định các dự án TĐN có công suất dưới 30MW) với tổng công suất đặt hiện có là 1836MW/tổng tiềm năng 7.200MW. Các dự án TĐN này tập trung chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Hiện nay, có khá nhiều doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư và vận hành với hiệu quả kinh tế cao các trạm thủy điện nhỏ tại một số tỉnh như Hà Giang, Lào Cai, Nghệ An, Hà Tĩnh, Gia Lai
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam - Số 47 - Tháng 1+2+3/2021
qua mấy cuộc chiến tranh, tâm lý bùng nổ, khủng hoảng diễn ra như hiện nay là tất yếu. Ở phương Tây sau Đại chiến II cũng vậy. Thân phận con người bị khủng bố, dập vùi, người ta không thiết sống nữa. Họ không thấy giết người là tội ác, không hiểu tội ác là gì. Tôi muốn, trong giai đoạn khủng hoảng này, nghệ thuật phải đưa con người trở về với con người, con người hiền hoà, con người yêu thương...”. Yêu thương chứ không phải là hằn thù, bạo lực, chiến tranh, “Hoàn Kiếm” hoặc “Trả gươm”, hoặc hòa bình, yên ổn, đó là tinh thần dân tộc Việt Nam, ai cũng biết vậy. Hình như thiên nhiên Việt Nam cũng mang đậm ý tưởng đó: Hà Nội là một vườn hoa đẹp và thơm. Nào chợ hoa Hàng Lược, nào bích đào Nhật Tân, nào làng hoa Quảng Bá, nào vườn hoa Mê Linh (cách Hà Nội trên mười cây số) và “con đường đào quất”: quất với nhiều tầng quả, màu vàng cam óng ánh nắng mặt trời, đào “như má hồng thiếu nữ”. Những ngày giáp Tết, con đường từ Phú Thượng về Hồ Tây. Đào và quất trên xe ô tô, xe máy, xe đạp, cả người đi bộ nữa, chở đây đào và quất, chảy về Hà Nội, tỏa ra ba mươi sáu phố phường. Tác giả gọi con đường đầy hoa thắm, quả vàng đó là “Con đường đào quất”, tác giả viết: “Con đường đào quất dẫn chúng ta đến chân trời vô tận của tình bạn, tình yêu” và “Nó như dòng sông hoa, quả kỳ ảo dưới nắng vàng”. Làng hoa Hà Nội (Ngọc Hà) muôn vàn hương sắc. Khóm này hoa đào thắm nở, giống như mảng phấn hồng tụ lại; khóm kia rực rỡ cúc vàng, khóm khác rực sáng cẩm chướng, quế, hồng, lan; hội tụ về đây những hương hoa thơm ngát, bưởi, ngâu, ngọc lan, huệ... Đó chính là tâm hồn tươi đẹp, thơm tho của người Hà Nội ngàn năm văn hiến. Giữa những màu sắc, hương thơm của làng hoa ấy, một bản nhạc vang lên: các cô gái làng hoa, giống như những nữ hoàng đầy hoa, thúng hoa trên đầu, tay phải một bó hoa, tay trái ôm một thúng hoa nữa, gõ những nhịp guốc như gõ những nhịp phách sắc xảo, những buổi sáng trong lành Hà Nội. Hồ Tây cũng ẩn chứa nhiều nét tinh hoa của Hà Nội. Con mắt thơ của tác giả nhìn Hồ Tây “như thực như mơ” dưới thời mây bảng lảng. Từ ban mai đến chiều hôm, Hồ Tây nhuốm sắc cầu vồng, từ màu hồng đến màu xanh, màu tím, màu vàng, một bài thơ. Đến Hồ Tây con người tự do, con người sáng tạo sống dậy với vũ trụ, nghệ thuật, triết học, đời sống tâm linh cũng thức dậy với vùng “văn hóa Phật giáo” này. Biết bao đền và chùa bao quanh Hồ Tây. Đi trên đường đường Cổ Ngư, nghe tiếng chuông đồng Ngũ Xã “lướt trên sóng hồ Trúc Bạch” và tiếng chuông chùa Trấn Quốc ngân nga, vang động lòng người. Mỗi sáng, mỗi chiều, từ các chùa bao quanh Hồ Tây, đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, phủ Tây Hồ, từ chùa và đền bên Yên Thái, vùng Bưởi, ngân vang biết bao tiếng chuông đầy bí ẩn, khi nhẹ nhàng, khi gióng giả, khi êm đềm, khi rung động, khi du dương xuyên qua không gian và thời gian, như tiếng gọi tha thiết hoặc trầm lặng của Chư Phật Bồ Tát đầy lòng từ bi, hỉ xả Tất cả những cái đó tạo ra “một thế giới tâm linh huyền diệu” cuộc sống tâm linh, những giá trị tâm linh - có lẽ đó là tinh hoa cơ bản của người phương Đông, của người Hà Nội, người Việt Nam. Theo tôi hiểu, tác phẩm “Tinh hoa Hà Nội” biểu đạt đúng “bản sắc dân tộc Việt Nam”. Song, từ xưa tới nay, riêng tôi, tôi dùng “tinh thần dân tộc Việt Nam”, tức là cái “tinh túy”, cái “tinh hoa” và cái “thần” của dân tộc Việt Nam. Cái “thần” cái “tinh túy” ấy ít phụ thuộc vào cái hình thức, cái bên ngoài. Chẳng hạn, các lễ nghi hiện nay, không cần đến những bộ áo tế thụng the, gấm xanh, hoặc bàn thờ không quá “quy mô” mà có thể thu hẹp, với bình hương, đôi cây nến đồng nhỏ, đôi hạc nhỏ cao độ ba mươi, bốn mươi phân... Những cái tinh túy, cái thần của việc cúng gia tiên, ông bà, cha mẹ (đã khuất) còn tồn tại mãi, trong tấm lòng con cháu trong gia đình. Phải hiện đại hóa mọi phong tục, tập quán, phải phát triển cái “thần” của truyền thống tốt đẹp phương Đông, kết hợp với tinh hoa văn hóa phương Tây; nhân loại xây dựng một nền văn hóa toàn thế giới, đa dạng, đa sắc tộc. Vui nhất là chợ Đồng Xuân, Thứ gì cũng có xa gần bán mua. Chợ Đồng Xuân là nơi giao lưu hàng hóa luôn luôn chuyển động. Ngoài ven đô từ nửa đêm, gánh rau quả, hoặc tải xe bò thịt cá vào chợ; cua bể, tôm bể từ Hải Phòng chở lên Hà Nội. Và từ miền Trung, miền Nam cũng ùn ùn chở đến chợ Đồng Xuân nào xoài, nào cá, nào đường bánh từ các lò thủ công. Rồi, những giao lưu miền ngược miền xuôi. Bây giờ còn có các mặt hàng điện tử, từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... Và ồn ào đủ mọi tiếng nói, tiếng Tây, tiếng Tàu, Ấn Độ... Chợ Đồng Xuân là một thế giới tấp nập, người mua kẻ bán, người du lịch đi xem chợ, suốt ngày, không ngớt. Điều khiến tất cả mọi sự nhốn nháo, tấp nập, xô bồ ấy là những người đàn bà giỏi giang, hoạt bát, các bà Nga, Thuận, Hinh, Thành... Mỗi sạp hàng đều có bàn thờ Phật - nhiều bà đã sáu mươi, bảy mươi tuổi, bán hàng ở chợ này ba, bốn chục năm, có bà “đi chợ” từ khi mười tuổi, các bà nhanh nhẹn, nhạy cảm, suốt ngày, suốt tháng, suốt năm và năm này năm khác, chỉ lo toan hàng và tiền, tiền và hàng. Thế mà chợ vẫn ngày một phát triển, ngày một đẹp, ngày một tăng thêm nền văn hoá dân dã. Cái ”phép tiên” ấy là tấm lòng thẳng thắn, trung thực, tình chị em, cả lòng từ thiện, công đức nữa. Chớ tưởng rằng người buôn bán thì “tiền trao, cháo múc”. Những kẻ điêu bạc, chua ngoa không “trụ” được ở chợ Đồng Xuân này. Các bà, các chị theo phương châm: “sống tử tế”, “sống đàng hoàng”, đàng hoàng từ cách đối xử với bạn bè, khách hàng, đàng hoàng từ cách ăn nói, đến áo quần, ứng xử lịch lãm, cả sang trọng nữa. Cái “thế giới đàn bà” đẹp đẽ, tài năng ấy là một tinh hoa của người Hà Nội. Nhà văn, với tấm lòng rộng mở, bao dung, biết gạt bỏ cái bề ngoài, những định kiến, để phát hiện cái bản chất, cái tinh hoa của sự vật, của “thế giới đàn bà” nhốn nháo, náo nhiệt, là chợ Đồng Xuân ấy. Ở mỗi nhóm người, mỗi cảnh quan, Mai Thục sáng tạo một nét, hay một khối tinh hoa của Hà Nội, của dân tộc - những sáng tạo ấy là của một tâm hồn thơ. Tập ký “Tinh hoa Hà Nội” đầy chất thơ, là như vậy. Đây là quần thể kiến trúc giữa Thủ đô Hà Nội; Hồ Gươm, nơi có gió xanh, hàng cây xanh, nước xanh, trời xanh, tiếng chim xanh, những nốt nhạc xanh, bầu trời xanh... Những màu xanh ấy bao vây lấy quần thể kiến trúc đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, đài Nghiên, tháp Bút, do thi sĩ tuyệt vời Nguyễn Văn Siêu tạo nên. Tháp Bút gồm năm tầng đá trên cùng là ngọn bút lông, như viết thẳng lên bầu trời. Cả quần thể kiến trúc này là biểu tượng của tinh hoa văn hóa Hà Nội, và tinh hoa văn hóa dân tộc ta. Đền Ngọc Sơn, thờ đức thánh Trần, thờ Văn Xương thần học, thờ Lã Đồng Tân, chữa bệnh cho dân chúng bằng nhiều vị thuốc tiên. Đền Ngọc Sơn ấy còn là nơi xướng hoạ thơ tao nhã dưới thời Lê Thánh Tông. Và, ngày nay, tác giả thấy nó là biểu tượng của khí tiết sĩ phu Bắc Hà. Hồ Hoàn Kiếm hoặc hồ Trả Gươm, là “khát vọng hòa bình của nhân dân, của kẻ sĩ Bắc Hà”, khát vọng tỏa sáng màu xanh biếc trong năm thế kỷ nay, màu xanh biếc ấy là linh hồn sĩ phu Bắc Hà. Tác giả viết: vẻ đẹp Hồ Gươm, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, tháp Bút, đài Nghiên “là hiện thân của chí khí sĩ phu Bắc Hà, đề cao văn hoá, chữ nghĩa và tu luyện đạo đức”, “Kẻ sĩ Bắc Hà sống thanh bạch cùng núi non, hồ nước, trăng sao, cây cỏ không màng danh vọng, không chịu nhục để có giàu sang, của cải”, tức là họ không “bán linh hồn cho quỷ dữ”. Họ dám xông pha xây dựng nước non nhà bằng ngòi bút, hoà nhập với vũ trụ, với cộng đồng thế giới”. Những suy tư này gần gũi với những suy tư Văn Văn hóa 78 79NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 1+2+3/2021 Lễ hội Hoa Ban - điểm hẹn mùa xuân nơi núi rừng Tây Bắc Lễ hội Hoa Ban được tỉnh Ðiện Biên tổ chức với quy mô cấp tỉnh lần đầu năm 2014 trong chuỗi các hoạt động kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Ðiện Biên Phủ. Trải qua 6 mùa lễ, hiện Lễ hội Hoa Ban Ðiện Biên đã trở thành địa điểm “đến hẹn lại lên”, được du khách trong và ngoài nước yêu thích. HUYỀN DUNG L ễ hội Hoa Ban hiện đã trở thành sự kiện văn hóa, du lịch mang tính cộng đồng và xã hội. Nó không chỉ là ngày hội của riêng dân tộc Thái mà trở thành ngày hội của cộng đồng các dân tộc tỉnh Ðiện Biên. Lễ hội diễn ra với nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, lịch sử phong phú, đa dạng như: diễu hành văn hóa đường phố; không gian văn hóa vùng cao; giao lưu, trải nghiệm các môn thể thao dân tộc (tó má lẹ, đi cà kheo, tù le, ném còn, trải nghiệm xe đạp thồ hay tải đạn...). Bên cạnh đó, hai hoạt động là cuộc thi “Trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc” và “Người đẹp hoa ban” sẽ được tổ chức đan xen theo từng năm, đây là những hoạt động mang tính điểm nhấn trong những ngày diễn ra lễ hội và đã nhận được sự quan tâm của đông đảo người dân, du khách thập phương. Cho đến hiện tại, Lễ hội Hoa Nghe những người già ở Mường Lay, Tuần Giáo kể lại, Lễ hội Hoa Ban xưa còn được gắn với lễ hội Xên Mường hay lễ hội Cầu mùa, thường được tổ chức vào dịp tháng 2 Âm lịch hàng năm, khi hoa ban bắt đầu nở trắng khắp các sườn đồi. Ðây là dịp để người dân thể hiện tấm lòng tôn kính tri ân với tổ tiên và các vị thần núi, thần sông và cũng là dịp để cầu cho quốc giá tên Ban xinh đẹp nhất bản mường ở xứ Mường Trời. Nàng đem lòng yêu chàng trai tên Khum, chàng trai dù nhà nghèo nhưng lại giỏi săn bắn, chăm làm và tốt bụng. Tuy nhiên, tình yêu của họ đã gặp trắc trở khi bố, mẹ nàng Ban hứa gả nàng cho con trai Tạo mường (một chức danh trong cộng đồng người vùng cao cũ). Ngày cưới đã được ấn định nhưng Khum đi săn bắn ở rừng sâu vẫn chưa về. Vào một đêm mưa gió, nàng Ban đã buộc khăn piêu ở cầu thang rồi một mình băng núi, băng rừng đi tìm người yêu. Nàng đi mãi, đi mãi, rồi kiệt sức và chết bên sườn núi lưng trời. Tại nơi nàng chết, người ta thấy có một loài hoa trắng muốt, hương thơm dịu ngọt. Dân bản tin rằng đó là nàng Ban đã hóa thân thành loài hoa ấy; cánh hoa trắng muốt thể hiện tình yêu son sắt thủy chung với chàng Khum thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt Với riêng đồng bào Thái ở Điện Biên, Lễ hội Hoa Ban còn thể hiện nét văn hóa tâm linh trong đời sống gắn với truyền thuyết về nàng Ban hay “sự tích hoa ban trắng”. Chuyện kể rằng, đó là một người con gái Thái xinh đẹp, nết na và rất mực thủy chung trong tình yêu đôi lứa. Cô Ban đã được tổ chức quy mô, bài bản hơn và được xây dựng thành sản phẩm du lịch mang thương hiệu trên cả nước, bởi đây chính là dịp để mọi người dân cùng ôn lại truyền thống và tri ân những người con của quê hương, những người anh hùng đã làm nên Chiến thắng lịch sử Ðiện Biên Phủ. Tỉnh Ðiện Biên đã chọn ngày 13/3 Dương lịch hàng năm là ngày khai mạc Lễ hội Hoa Ban vì đây chính là ngày quân ta nổ phát súng đầu tiên mở màn Chiến dịch Ðiện Biên Phủ (13/3/1954). Đồng thời, đây cũng là thời điểm hoa ban đẹp nhất, nở trắng khắp các sườn núi, lòng thung và trên từng con phố... Ngày nay, Lễ hội Hoa Ban Ðiện Biên đã trở thành một sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch tiêu biểu của tỉnh nhằm giới thiệu văn hóa truyền thống đặc trưng của nhân dân các dân tộc trong tỉnh; là dịp để quảng bá tiềm năng, thế mạnh, vẻ đẹp của mảnh đất, con người Ðiện Biên đến với đông đảo người dân và du khách. Nổi tiếng từ năm 2014, thế nhưng không nhiều người biết rằng, Lễ hội Hoa Ban đã có từ xa xưa. Trước đây, Lễ hội chỉ có phần lễ, mang đậm yếu tố văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của dân tộc Thái và một số dân tộc có sự giao thoa với nền văn hóa Thái. Do vậy, tín ngưỡng này không chỉ có ở riêng Ðiện Biên mà còn hiện diện trong đời sống văn hóa tâm linh của đồng bào nhiều nơi thuộc khu vực Tây Bắc như: Sơn La, Lai Châu, Yên Bái Lễ hội Hoa Ban năm 2019. Hoa ban nở trắng trên núi cao. Văn hóa 80 NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 1+2+3/2021 Về phần Khum, sau khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người yêu vắt nơi cầu thang, biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm nàng. Dò hỏi bà con bên bản người yêu, Khum biết được là nàng đã bỏ nhà ra đi, còn đi đâu thì không rõ. Thế là chàng trai lên đường đi tìm người yêu, đi mãi hết mường này, bản khác mà vẫn không tìm thấy bóng dáng người yêu. Cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hóa thành con chim sống lẻ loi trong rừng và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi người yêu tha thiết tự năm nào. Ở Sơn La, cứ sang xuân, khi hoa ban nở trắng trên các sườn núi, nam nữ thanh niên trong các bản mường lại rủ nhau đi hội chơi núi, hái hoa mừng xuân. Đây cũng là dịp nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát, đánh đàn tính, thổi kèn, múa xòe, trao và đón nhận tình yêu. Từ sáng tinh mơ của ngày hội, tiếng trống, tiếng chiêng âm vang truyền lan núi rừng. Các bếp nhà sàn bập bùng lửa đỏ: đồ xôi, luộc gà, thái măng; có nhà mổ lợn bày cỗ. Rượu cần từng vò lớn, nhỏ được bê ra để chuẩn bị đãi khách. Còn những chàng trai, cô gái thì áo quần, khăn váy chỉnh tề, gọi nhau í ới và cùng đổ ra đường dẫn đến những cánh rừng có nhiều hoa ban nở. Họ chọn những cành hoa đẹp nhất, vừa hé nụ đều nhất để tặng người yêu và biếu cho bố mẹ. Theo quan niệm của người Thái, hoa ban không chỉ tượng trưng cho tình yêu mà còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo, biết ơn. Lễ hội Hoa Ban xưa diễn ra trong nhiều ngày. Bên cạnh các nghi thức tâm linh và các trò chơi dân gian được tổ chức ở khắp bản làng thì buổi tối là thời gian cho các điệu xòe bên ánh lửa hồng ấm áp. Ðêm cuối cùng của những ngày lễ hội là đêm đặc biệt dành cho các đôi nam nữ tỏ tình yêu nhau, hàn huyên tâm sự đến khi trời sáng. Cũng trong ngày hội này, trên dòng Nậm Na thường diễn ra các cuộc hát giao duyên của nam nữ trên thuyền. Thuyền trôi nhẹ trên dòng nước; các cô gái duyên dáng che ô ngồi ở mũi thuyền, bên cạnh những bó hoa ban tươi thắm vừa mới hái, cất lên tiếng hát những bài dân ca mượt mà, giãi bày cảm xúc và tâm trạng riêng tư, trong khi các chàng trai ngồi ở phía đuôi thuyền, vừa lái thuyền vừa đánh đàn tính, thổi sáo. Dưới ánh trăng non mờ ảo, hoa ban trắng điểm những giọt sương ánh lên một màu tinh khiết trên nền xanh của núi rừng, những cô gái Thái trong trang phục áo cóm, lấp lánh hàng khuy bạc e ấp bên những chàng trai mình yêu mến. Họ tin rằng, tỏ tình trong đêm hội Hoa Ban thì sẽ có được một tình yêu chung thủy như chuyện tình của nàng Ban và chàng Khum Văn hóa
File đính kèm:
- tap_chi_nang_luong_sach_viet_nam_so_47_thang_1232021.pdf