Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam - Số 45 - Tháng 7+8+9/2020
Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, đến nay hạ tầng lưới điện truyền tải đã cơ bản đáp ứng giải toả hết công suất của 113 dự án điện mặt trời, điện gió đã đưa vào vận hành với tổng công suất trên 5.700MW. VIETNAM CLEAN ENERGY ASSOCIATION S au khi Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế khuyến khích phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo (NLTT), nhiều nhà đầu tư đã tích cực tham gia nghiên cứu và đề xuất đầu tư các dự án nguồn điện NLTT. Tính đến cuối tháng 8/2020, tổng công các trạm biến áp tổng dung lượng 5.025MVA. Trong đó đã hoàn thành vượt tiến độ một số công trình trọng điểm như: nâng công suất các trạm 500 kV Vĩnh Tân, Di Linh; nâng công suất các trạm 220kV Tháp Chàm, Hàm Tân; hoàn thành đưa vào vận hành các trạm 220kV mới như Ninh Phước, Phan Rí; đầu tư mới và cải tạo nâng cấp các tuyến đường dây 110kV trong khu vực. Mặc dù công tác đầu tư xây dựng gặp rất nhiều khó khăn thách thức do tác động ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhưng với sự nỗ lực của EVN và các đơn vị cùng sự ủng hộ, hỗ trợ của các bộ, ngành, địa phương, đến nay hạ tầng lưới điện truyền tải đã cơ bản đáp ứng giải toả hết công suất của 113 dự án điện mặt trời, điện gió đã đưa vào vận hành với tổng công suất trên 5.700MW (bao gồm cả các dự án vận hành trước 30/6/2019 và các dự án mới được đưa vào vận hành trong năm 2020). Cơ bản giải toả hết công suất 113 dự án NLTT đã được đưa vào vận hành CẨM HẠNH cơ chế ưu đãi của Chính phủ, EVN đã chỉ đạo các đơn vị thành viên tăng cường nhân lực, kể cả làm thêm ngoài giờ và các ngày nghỉ lễ, cuối tuần để kịp thời hỗ trợ tối đa công tác đấu nối lưới điện, kết nối hệ thống SCADA, thử nghiệm tấm pin. Tính đến nay, toàn quốc đã đưa vào vận hành 102 dự án điện mặt trời với tổng công suất 6.314MWp (tương đương 5.245MWac), trong đó chỉ riêng trong quý II/2019 có gần 90 dự án điện mặt trời với tổng công suất khoảng 4.000MWp được đưa vào vận hành. Đây là khối lượng công việc kỷ lục trong quá trình phát triển của ngành điện Việt Nam và số lượng nhà máy được đưa vào vận hành cũng là kỷ lục từ trước đến nay. Do các nguồn điện NLTT được đưa vào vận hành đồng loạt trong một thời gian rất ngắn và tập trung mật độ lớn tại các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận nên xuất hiện tình trạng quá tải cục bộ lưới điện vào thời điểm các dự án điện mặt trời phát công suất cao đồng thời. Để khắc phục tình trạng quá tải lưới điện khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận, EVN cùng các đơn vị thành viên tập trung mọi nguồn lực và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong đầu tư xây dựng để đẩy nhanh tiến độ các công trình lưới điện phục vụ giải tỏa công suất các nguồn điện NLTT. Thời gian qua các đơn vị đã đưa vào vận hành 21 công trình lưới điện từ 110kV đến 500kV phục vụ giải tỏa các nguồn điện NLTT với tổng chiều dài đường dây trên 750km và Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều dự án nguồn điện NLTT đã được bổ sung quy hoạch với tổng công suất hơn 17.000MW và trong đó có nhiều dự án đang được các chủ đầu tư gấp rút triển khai để được hưởng cơ chế giá điện FIT áp dụng cho các dự án điện mặt trời đưa vào vận hành thương mại đến hết ngày 31/12/2020 (theo Quyết định 13/2020/QĐ-TTg ngày 06/4/2020) và cơ chế giá điện FIT áp dụng cho các dự án điện gió đưa vào vận hành thương mại trước tháng 11/2021 (theo Quyết định 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018). Vì vậy, dự kiến sẽ có nhiều dự án điện gió và điện mặt trời tiếp tục được đưa vào vận hành trong thời gian tới
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam - Số 45 - Tháng 7+8+9/2020
gom, tái chế và xử lý chất thải nhựa; xây dựng cổng thông tin điện tử để chia sẻ thông tin, kiến thức về chất thải nhựa; nghiên cứu và đưa tiêu chí giảm thiểu, phân loại, thu gom chất thải nhựa trong đánh giá, xếp hạng kết quả hoạt động bảo vệ môi trường của các địa phương. Thực hiện xã hội hóa, nâng cao vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp trong hoạt động giảm thiểu phát thải chất thải nhựa, phân loại, thu gom, tái chế, xử lý chất thải nhựa; mở rộng các hình thức ưu đãi, hỗ trợ đối với các tổ chức, cá nhân sản xuất, phân phối, quảng bá, tiêu dùng các sản phẩm nhựa, túi nilon được gắn nhãn xanh; xây dựng, triển khai, hoàn thiện cơ sở dữ liệu về đăng ký, khai báo, quản lý việc sản xuất, sử dụng sản phẩm chứa chất thải nhựa, túi nilon; tăng cường truyền thông, triển khai nhân rộng, áp dụng hiệu quả các mô hình giảm thiểu, phân loại, thu gom chất thải nhựa, túi nilon tại các địa điểm, khu du lịch, đặc biệt các địa điểm, khu du lịch gắn liền với nguồn nước... Tăng mức thuế đối với túi nilon, bao bì và sản phẩm nhựa khác Bộ Tài chính nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung Luật Thuế bảo vệ môi trường theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế và tăng mức thuế đối với túi nilon, bao bì và sản phẩm nhựa khác; nghiên cứu đề xuất đánh thuế vật liệu nhựa gốc (virgin Mở rộng đối tượng chịu thuế và tăng mức thuế đối với nilon, bao bì và sản phẩm nhựa. Nhiều cơ quan, công sở không sử dụng đồ nhựa dùng một lần. vật, phân bón; chuẩn bị nguồn nguyên liệu cho các sản phẩm thay thế túi nilon khó phân hủy và đồ nhựa dùng một lần từ nông sản. Bộ Y tế chỉ đạo thực hiện kế hoạch phân loại, giảm thiểu chất thải nhựa tại các bệnh viện, cơ sở y tế; chỉ đạo hướng dẫn việc phân loại rác tại bệnh viện, cơ sở y tế; đưa nội dung giảm thiểu chất thải nhựa là một tiêu chí đánh giá cơ sở y tế xanh, sạch, đẹp. Ban hành tiêu chuẩn chất lượng, yêu cầu vệ sinh đối với các sản phẩm nhựa tái chế làm bao bì đựng thực phẩm, các loại nước đóng chai... Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng, thực hiện kế hoạch phân loại chất thải và giảm thiểu chất thải nhựa trong các trường học, cơ sở giáo dục, đào tạo; xây dựng nội dung lồng ghép vào hoạt động giáo dục về phân loại chất thải tại nguồn cho học sinh, sinh viên; đưa nội dung phân loại chất thải và giảm thiểu chất thải nhựa thành một tiêu chí đánh giá trường học xanh – sạch – đẹp – an toàn. Bộ Khoa học và Công nghệ thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ sản xuất vật liệu thân thiện với môi trường nhằm thay thế nhựa trong sản xuất, kinh doanh như: vật liệu nhựa phân hủy ở trong nước biển, vật liệu nhựa sinh học (bio plastic), ứng dụng công nghệ dùng xenlulo, thay thế vật liệu nhựa bằng giấy; thúc đẩy, hỗ trợ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ liên quan đến tái chế và xử lý chất thải nhựa; thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia liên quan đến tái chế và xử lý chất thải nhựa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nghiên cứu, bổ sung tiêu chuẩn giảm thiểu sử dụng sản phẩm nhựa dùng một lần và túi nilon khó phân hủy trong các cơ sở kinh doanh, dịch vụ lưu trú du lịch và dịch vụ du lịch khác tại các khu, điểm du lịch, các cơ sở thể dục thể thao quần chúng, các trung tâm huấn luyện và thi đấu thể thao, đặc biệt tại các vùng ven biển và đưa ra các phương án thay thế trong quy định hướng dẫn ngành du lịch dịch vụ... Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam chủ trì hoặc phối hợp các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện chương trình truyền thông, tuyên truyền về giảm thiểu phát thải chất thải nhựa, phân loại, thu gom, tái chế, xử lý chất thải nhựa. Môi trường 40 41NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 7+8+9/2020 phân tích chi tiết tất cả các dữ liệu và lập một báo cáo đánh giá tác động giảm khí nhà kính cũng như cải thiện chất lượng không khí. Những kết quả này sẽ được công bố tới công chúng và các bên liên quan sẽ được khuyến khích hành động tích cực bằng cách chia sẻ những kết quả đó thông qua các hội nghị công khai với các bộ ngành, viện nghiên cứu, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức dân sự xã hội. MBI Việt Nam và UNDP sẽ mở rộng chương trình chia sẻ xe đạp điện này ở thành phố Huế vào cuối năm nay. Trong tương lai, chương trình chia sẻ xe đạp điện cũng có thể sẽ được mở rộng tới các thành phố khác. Bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam nhấn mạnh: “Giao thông xanh đang tạo ra các cơ hội kinh doanh mới và mô hình kinh doanh mới cho các doanh nghiệp, không chỉ giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững mà còn góp phần giảm Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Công ty xe điện MBI Việt Nam vừa tổ chức lễ công bố Sáng kiến giao thông điện xanh ở Ecopark (Hưng Yên). MAI CHI S áng kiến giao thông điện xanh là một sáng kiến công - tư do UNDP, MBI Việt Nam, Ecopark, Ecotek và thành phố Huế cùng lên kế hoạch và thực hiện. Đây là một hoạt động trong khuôn khổ Chỉ số Kinh doanh Khí hậu của UNDP và Bộ Kế hoạch và Đầu tư - một hệ thống khuyến khích các công ty thực hiện các hành động thích ứng biến đổi khí hậu. Mục đích chung của sáng kiến Giao thông điện xanh nhằm Triển khai Sáng kiến giao thông điện xanh nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giao thông xanh trong việc giải quyết các vấn đề của biến đổi khí hậu và chất lượng không khí ở Việt Nam. Nó nhằm mục đích thúc đẩy việc di chuyển xanh để giảm ô nhiễm không khí và các nguy cơ sức khỏe do ô nhiễm gây ra. Theo sáng kiến này, trong 2 tháng tới, một thử nghiệm thí điểm chương trình chia sẻ xe đạp điện sẽ được tiến hành tại Ecopark với khoảng 500 xe đạp điện, 50 trạm sạc và một trung tâm điều hành. Sau khi thời gian thử nghiệm này, UNDP sẽ Thí điểm chương trình chia sẻ xe đạp điện sẽ được tiến hành tại Ecopark với khoảng 500 xe đạp điện, 50 trạm sạc và một trung tâm điều hành. thiểu tác động của biến đổi khí hậu và ô nhiễm không khí. Mọi cá nhân đều có thể đóng góp thực sự vào quá trình chuyển đổi hướng tới một tương lai xanh hơn, sạch hơn bằng cách lựa chọn phương tiện giao thông chạy bằng điện”. Ông Henry Yu, quyền Tổng giám đốc MBI Việt Nam cho biết: “MBI Việt Nam đặt mục tiêu trở thành giải pháp bền vững trong lĩnh vực giao thông vận tải tại Việt Nam. Hợp tác cùng UNDP, chúng tôi có thể đóng góp vào nỗ lực giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và giúp các địa phương trở thành những thành phố xanh, sạch và thông minh hơn”. Đô thị xanh 42 43NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 7+8+9/2020 Xây dựng Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh Trong công văn gửi các Sở Thông tin và Truyền thông (TT&TT), Cục Tin học hóa, Bộ TT&TT cho biết, việc xây dựng Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh có ý nghĩa rất quan trọng, giúp địa phương xác định tầm nhìn và kế hoạch lâu dài. ĐỨC DŨNG giao chủ trì nhiều nhiệm vụ trong Đề án. Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Đề án 950, tháng 5/2019, Bộ TT&TT ra Quyết định 829 ban hành Khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh (phiên bản 1.0). Khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh (phiên bản 1.0) nêu rõ, các Sở TT&TT có trách nhiệm xây dựng Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh của địa phương, trình UBND tỉnh, thành phố ban hành sau khi có ý kiến của Bộ TT&TT. Trong công văn mới “Đ ề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 – 2025 và định hướng đến năm 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 950 ngày 1/8/2018 (còn gọi là Đề án 950) đã xác định các quan điểm, nguyên tắc về phát triển đô thị thông minh và 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Bộ TT&TT với vai trò dẫn dắt định hướng về ứng dụng công nghệ thông tin đã được gửi các Sở TT&TT, Cục Tin học hóa, Bộ TT&TT cho biết, việc xây dựng Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh có ý nghĩa rất quan trọng, giúp địa phương xác định tầm nhìn và kế hoạch lâu dài, đồng thời bảo đảm tính đồng bộ và bền vững trong phát triển đô thị thông minh. Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh đóng vai trò nền tảng tổng thể làm căn cứ để địa phương, doanh nghiệp và các bên liên quan thiết kế, xây dựng các thành phần, chức năng, giải pháp và dịch vụ ứng dụng ICT trong việc xây dựng đô thị thông minh. Do đó, Cục Tin học hóa, Bộ TT&TT đề nghị các Sở TT&TT khẩn trương xây dựng, lấy ý kiến Bộ TT&TT và trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành Kiến trúc của mình. Cục cũng lưu ý Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh của địa phương cần tuân thủ theo đúng Khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh (phiên bản 1.0). Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh của tỉnh, thành phố cần đảm bảo là kiến trúc mở, module hóa, bảo đảm tính tương thích, kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu và khả năng mở rộng linh hoạt. Kiến trúc ICT là cơ sở tham chiếu để phát triển, cung cấp các dịch vụ đô thị thông minh một cách nhanh chóng, hiệu quả, bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Đối với thành phần Kiến trúc ICT là Trung tâm giám sát, điều hành đô thị thông minh tập trung, đa nhiệm - IOC và các Trung tâm thành phần - OC (nếu có), Cục Tin học hóa đề nghị địa phương tham khảo các văn bản 328 ngày 27/3/2020, 587 ngày 15/5/2020 của Cục để thực hiện. Theo Cục Tin học hóa, các Sở TT&TT cần đảm bảo một số yếu tố như: cung cấp dịch vụ, tiện ích hướng đến nhiều đối tượng người sử dụng bao gồm chuyên viên, lãnh đạo chính quyền, người dân, du khách, doanh nghiệp, nhà đầu tư hỗ trợ các nhóm người dùng thực hiện hoạt động một cách thuận tiện, thông minh và bảo đảm khả năng tương tác giữa các nhóm người dùng; khả năng kết nối, tương tác với những hệ thống đã có sẵn và bảo đảm tính mở để dễ dàng kết nối với các hệ thống sẽ hình thành trong tương lai; năng lực lưu trữ, khai phá, phân tích dữ liệu theo nhiều ngữ cảnh khác nhau phù hợp cho nhiều đối tượng người sử dụng; an toàn an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, phân quyền truy cập, phát hiện và cảnh báo sớm các lỗ hổng và mối nguy an ninh mạng. Về kế hoạch triển khai Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông tin, theo hướng dẫn của Cục Tin học hóa, trên cơ sở kiến trúc mở và module hóa đã được xác định trong Kiến trúc ICT, các thành phần của Kiến trúc ICT có thể được đầu tư, quản lý tập trung hoặc bán tập trung (kết hợp giữa tập trung và phân tán) hoặc phân tán, tùy theo thực tiễn phân cấp quản lý, nguồn kinh phí và phân kỳ kinh phí của từng địa phương. Đô thị xanh 44 45NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI SỐ THÁNG 7+8+9/2020 So với các thành phố trên thế giới hoặc tiêu chuẩn do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị, không gian xanh của Hà Nội đều thấp hơn khá nhiều. Theo đó, việc sử dụng quỹ đất chuyển đổi từ những khu đất không sử dụng nữa, đặc biệt là nhà máy đã được di dời cần ưu tiên cho cây xanh, mặt nước và không gian công cộng để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. TIẾN ĐẠT Tăng không gian xanh cho Thủ đô Cũng theo khảo sát của PPWG, đa số người dân được hỏi muốn nhà máy chuyển đi được thay bằng công viên (93%), cơ sở y tế (43%) hoặc cơ sở giáo dục (40%). Điều này cũng nhất quán với nhu cầu của người dân Hà Nội khi 92% người dân được hỏi cho rằng không gian công cộng là quan trọng với lối sống của họ và 79% nhìn nhận, Hà Nội đang thiếu không gian công cộng. Theo kiến trúc sư Đinh Đăng Hải, chuyên gia dự án Thành phố sống tốt, tổ chức HealthBridge Canada tại Việt Nam, hiện nay, diện tích không gian công cộng ở Hà Nội rất hạn chế, trung bình người dân Hà Nội chỉ có 3m2 diện tích không gian công cộng/người. Thậm chí những người dân sống ở quận Hoàn Kiếm chỉ có 30cm2/người. Như vậy, Hà Nội còn một khoảng cách rất xa mới đạt chuẩn về không gian công cộng so với các TP trên thế giới. Đồng quan điểm, Phó Viện trưởng Viện Kiến trúc quốc gia PGS.TS Phạm Thúy Loan cho rằng, thiết kế đô thị là lĩnh vực chủ yếu tập trung vào chất lượng môi trường không gian đô thị, phục vụ con người và không gian công cộng là chủ đề trọng tâm của thiết kế đô thị. Trong đó, không gian công cộng phải có khả năng tiếp cận dễ dàng, phục vụ cho đời sống của T heo kết quả khảo sát thực địa của Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân (PPWG) được công bố tại tọa đàm “Hiện trạng di dời nhà máy ra khỏi khu dân cư và cơ hội mở rộng không gian công cộng”, Chủ tịch PPWG Lê Quang Bình cho biết, có đến 98,49% người dân được hỏi ủng hộ quyết định di dời nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư của TP Hà Nội. Có tới gần 60% ý kiến người dân cho rằng không gian sống của họ đang bị ảnh hưởng bởi hoạt động của nhà máy, trong đó mức độ bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm không khí độc hại chiếm 80,52%. “Theo một khảo sát thực địa khác của PPWG, trong số 39 nhà máy thuộc dạng di dời ghi trong danh sách kèm theo công văn số QHKT/8/2011 của Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội ở 2 quận Hai Bà Trưng và Thanh Xuân thì có 21 nhà máy đã di dời”, chuyên gia Lê Quang Bình chia sẻ thêm. NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI Đô thị xanh 46 NĂNG LƯỢNG SẠCH VIỆT NAM KHƠI NGUỒN CUỘC SỐNG MỚI con người. Khi so sánh về không gian xanh của Hà Nội với các TP trên thế giới hoặc tiêu chuẩn do tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị thì đều thấp hơn khá nhiều. Bà Phạm Thúy Loan nhấn mạnh: “Để tăng quỹ không gian xanh, đối với công viên, mặt nước, cây xanh sẵn có, Hà Nội cần phát huy tối đa, nâng cao khả năng phục vụ, lồng ghép các mục tiêu vào đó. Bên cạnh đó, TP cũng cần sử dụng quỹ đất chuyển đổi từ những khu đất không sử dụng; ưu tiên cho cây xanh, mặt nước và không gian công cộng để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân”. Theo hệ thống văn bản pháp luật hiện nay, nhà nước đã có chủ trương, chính sách di dời các nhà máy công nghiệp ra khỏi khu vực trung tâm và sử dụng không gian sau di dời để phát triển không gian công cộng. TP Hà Nội đã có kế hoạch cụ thể di dời hơn 100 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi nội thành. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, để các công viên, không gian công cộng đáp ứng nhu cầu của người dân, trước hết chính quyền các đô thị cần phải xây dựng được chiến lược phát triển không gian công cộng với những chính sách phát triển được đưa vào trong các quy hoạch tổng thể của TP. Đặc biệt, chính quyền cần huy động sự tham gia của cộng đồng trong việc đóng góp ý kiến cũng như giám sát quá trình thực hiện. Đô thị xanh SỐ THÁNG 7+8+9/2020
File đính kèm:
- tap_chi_nang_luong_sach_viet_nam_so_45_thang_7892020.pdf