Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020

Abstract: The Scenic Landscape Complex of Trang An was the first mixed heritage site of

Vietnam and South East Asia that was recognised by UNESCO as one of the World Cultural and

Natural Heritage. The developments of the tourism scene has not only contributed to the economy

of the local residents but also helps to establish the connection between the different parties involved. In addition, it also creates various opportunities for cultural exchange as well as promotes

the overall image of the destination. However, the expansion of tourism also leads to a number of

setbacks for the local economy as well as the socio-cultural scene and the environment of the heritage site. In order to ensure the sustainable development of Trang An Scenic Landscape Complex,

striking a balance between the process of conservation and development is of the utmost priority

so that the current demands of tourists and the local community will be fulfilled and at the same

time do not interfere with the ability to provide for the future generations

1. Introduction

Being the first mixed heritage site

of Vietnam and Southeast Asia to be recognised by UNESCO as a World Cultural and Natural Heritage, Trang An (SLC)

Scenic Landscape Complex stretches over

12,000 hectares under administrative addresses of 5 districts, cities of Ninh Binh

province. Trang An SLC is an unique and

interesting destination with a harmonious combination between beautiful natural landscapes and rich cultural heritage.

Through tourism activities and events as

well as the rich scene of history, culture,

nature and stunning aesthetics, the overall

image of Trang An SLC has been widely conveyed to the general public, both

domestically and internationally, thus

bringing in significant sources of income,

contributing to the local economic development. Over the past few years, along

with the ever increasing number of tourists coming to Trang An SLC, the conflict

between the process of conservation and

development has become more and more

apparent. In order to ensure the sustainable

development of Trang An SLC, the issue

of harmonizing the relationship between

conservation and development needs to

be addressed so that “the current demands

are fulfilled without affecting or interfering with the ability to meet the needs of

the future generations” (WCED, 1987)2 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion

according to the principles of sustainable

development

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 1

Trang 1

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 2

Trang 2

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 3

Trang 3

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 4

Trang 4

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 5

Trang 5

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 6

Trang 6

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 7

Trang 7

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 8

Trang 8

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 9

Trang 9

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020 trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 88 trang xuanhieu 3200
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020

Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Hà Nội - Số 72 - Tháng 10/2020
bởi phương thức quản lý, kinh doanh, tiêu 
dùng, lao động trong lĩnh vực du lịch sẽ 
phải thay đổi nhanh chóng trong bối cảnh 
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 
(CMCN 4.0) trong khi nguồn nhân lực du 
lịch Việt Nam còn nhiều hạn chế cả về số 
lượng lẫn chất lượng.
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 72 (10/2020) 80-84
81Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
2. Bối cảnh phát triển và những 
tác động của cách mạng công nghiệp 
đến ngành du lịch
Được xác định là một ngành kinh tế 
trọng điểm, trong những năm qua, du lịch 
nhận được mối quan tâm rất lớn của Đảng 
và Nhà nước. Phát triển du lịch được xác 
định là trách nhiệm của cả hệ thống chính 
trị, các cấp, các ngành và của toàn xã hội. 
Nhiều chính sách đã được ban hành tạo điều 
kiện cho du lịch nói chung, nhân lực du lịch 
nói riêng phát triển. Nghị quyết số 08-NQ/
TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về 
“Phát triển Du lịch trở thành ngành Kinh tế 
mũi nhọn” cũng đã đề ra nhiệm vụ và giải 
pháp phát triển du lịch, trong đó nhấn mạnh 
đến yêu cầu phát triển nguồn nhân lực về số 
lượng và chất lượng. Nghị quyết đã nêu rõ: 
“Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ 
tiên tiến trong đào tạo bồi dưỡng phát triển 
nguồn nhân lực du lịch” và “nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực cả về quản lý nhà 
nước, quản trị doanh nghiệp và và lao động 
nghề du lịch”. 
Bên cạnh đó, trong bối cảnh lan 
rộng của làn sóng CMCN 4.0, Thủ tướng 
Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-
TTg về việc tăng cường năng lực tiếp cận 
cuộc CMCN 4.0, chỉ đạo tổ chức thực 
hiện các giải pháp nhằm tận dụng tối đa 
các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những 
tác động tiêu cực của cuộc CMCN 4.0 
đối với Việt Nam, trong đó đặt ra nhiệm 
vụ cho ngành Du lịch: “Chủ động rà soát, 
xây dựng kế hoạch và nhiệm vụ trọng tâm 
của ngành để tổ chức triển khai phù hợp 
với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4”. 
Là sự hội tụ của một loạt các công 
nghệ mới, ra đời dựa trên nền tảng kết 
nối và công nghệ số được ứng dụng trong 
mọi lĩnh vực của đời sống, CMCN 4.0 
đã nhanh chóng tác động sâu rộng đến 
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, 
trong đó có du lịch. Internet kết nối vạn 
vật (Internet of thing) có thể ứng dụng 
trong dịch vụ lưu trú vă ăn uống như: tạo 
ra các phòng lưu trú thông minh - tự điều 
chỉnh nhiệt độ, ánh sáng, các trang thiết bị 
tự động trong phòng; dự đoán bảo trì, bảo 
dưỡng, phát hiện hỏng hóc của hệ thống 
các thiết bị phục vụ; theo dõi quản lý thực 
phẩm tồn kho... Trí tuệ nhân tạo (Artifi cil 
interlligence) có thể ứng dụng trong vai 
trò trợ lý ảo để cung cấp thông tin, chăm 
sóc khách du lịch, giải quyết phàn nàn, đặt 
chỗ tự động... để gia tăng chất lượng trải 
nghiệm và tiết kiệm thời gian cho khách. 
Dữ liệu lớn tập trung (Big data) có thể 
ứng dụng trong việc phân tích và lựa chọn 
thị trường mục tiêu, thậm chí giúp doanh 
nghiệp cá nhân hoá được từng sản phẩm 
và dịch vụ du lịch để đáp ứng hoàn hảo 
nhu cầu của du khách. 
Có thể thấy, những công nghệ mới 
của CMCN 4.0 ứng dụng trong lĩnh vực 
du lịch sẽ tạo ra rất nhiều thay đổi trong 
phương thức quản lý, kinh doanh, tiêu 
dùng và gắn với những đòi hỏi mới về 
trình độ, kỹ năng, phẩm chất của nhân 
lực lao động trong ngành du lịch. CMCN 
4.0 sẽ làm thay đổi nhu cầu và phương 
thức tiếp cận du lịch của thị trường 
khách, thay đổi một số vị trí việc làm 
trong ngành du lịch và làm thay đổi một 
số tiêu chuẩn nghề nghiệp trong ngành 
du lịch.
CMCN 4.0 làm thay đổi nhu cầu 
và phương thức tiếp cận du lịch của thị 
trường khách: 
82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
CMCN 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ 
kỹ năng quản trị, kinh doanh, là giảm giá 
thành và tăng chất lượng dịch vụ du lịch 
nên sẽ là động lực mạnh mẽ để kích cầu 
du lịch. Sự bùng nổ của công nghệ trực 
tuyến giúp du khách dễ dàng tiếp cận trực 
tiếp với sản phẩm và dịch vụ du lịch ở bất 
cứ địa điểm nào trên phạm vi toàn cầu với 
chi phí thấp hơn. Thói quen du lịch, hành 
vi du lịch, thời gian du lịch... đều có thể 
thay đổi. Đồng thời, nhu cầu về tính cá 
nhân hoá trong các sản phẩm du lịch có xu 
hướng gia tăng sẽ buộc ngành du lịch và 
nhân lực lao động trong ngành phải chủ 
động thay đổi để đáp ứng.
CMCN 4.0 làm thay đổi một số vị trí 
việc làm trong ngành du lịch: 
Kết quả của việc áp dụng những 
công nghệ mới trong ngành du lịch đã 
hình thành nên những xu hướng du lịch 
mới như du lịch thông minh, du lịch thực 
tế ảo... từ đó tạo ra các vị trí công việc 
mới như nhân viên marketing trực tuyến, 
tư vấn và bán hàng trực tuyến, chăm sóc 
khách hàng trực tuyến, kỹ thuật viên phân 
tích và xử lý dữ liệu trực tuyến... Trong khi 
đó, một số khâu trong quy trình “sản xuất” 
sản phẩm và dịch vụ du lịch sẽ dần được 
thay thế bằng robot thông minh và tự động 
hoá như đón khách, soát vé, vận chuyển 
hành lý, hỗ trợ thanh toán tự động, bảo vệ 
an ninh... nên có thể làm mất đi một số 
vị trí công việc truyền thống trong ngành 
như nhân viên soát vé, hướng dẫn viên du 
lịch, tư vấn viên và nhân viên chăm sóc 
khách du lịch, nhân viên an ninh...
CMCN 4.0 làm thay đổi một số tiêu 
chuẩn nghề nghiệp trong ngành du lịch: 
Việc ứng dụng công nghệ ngày càng 
phổ biến trong công việc cũng như sự xuất 
hiện của các vị trí nghề nghiệp mới đòi 
hỏi nhân lực lao động trong ngành phải 
có trình độ và kỹ năng sử dụng thành thạo 
các công nghệ gắn với từng vị trí nghề 
nghiệp cụ thể. Vì thế, tiêu chuẩn của các 
vị trí nghề nghiệp chắc chắn sẽ có những 
thay đổi, phù hợp với yêu cầu của tình 
hình mới, của thực tế ứng dụng công nghệ 
vào các vị trí công việc cụ thể. Trong bối 
cảnh này, nguồn nhân lực du lịch chất 
lượng cao sẽ trở thành yếu tố quyết định 
trong cạnh tranh và đảm bảo sự thành 
công trong công tác điều hành, quản lý, 
kinh doanh du lịch. 
3. Thực trạng nguồn nhân lực 
du lịch
Nguồn nhân lực du lịch có thể hiểu 
là toàn bộ lực lượng lao động trực tiếp và 
gián tiếp có đủ khả năng và các điều kiện 
tham gia lao động trong lĩnh vực du lịch. 
Sự tăng trưởng nhanh chóng của du lịch 
Việt Nam cùng với những yêu cầu cấp thiết 
đặt ra từ cuộc CMCN 4.0 đối với ngành du 
lịch đòi hỏi phải ngành phải có một nguồn 
nhân lực đảm bảo cả về số lượng lẫn chất 
lượng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nguồn 
nhân lực du lịch Việt Nam đang thiếu về 
số lượng và yếu về chất lượng. 
Sự thiếu hụt nguồn nhân lực du lịch:
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu 
Phát triển du lịch, với đà tăng trưởng như 
thời gian qua, ước tính mỗi năm ngành du 
lịch cần thêm khoảng 40.000 lao động. 
Năm 2018, cả nước có 195 cơ sở đào tạo 
về du lịch, trong đó có 80 trường đại học 
nhưng chỉ đáp ứng được khoảng 15.000 
lao động mỗi năm. Nhu cầu về nhân lực 
hoạt động trong ngành du lịch tăng bình 
quân khoảng 40% năm, trong đó, nhu cầu 
lao động có trình độ đại học, cao đẳng 
83Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
chiếm 15%. Cũng theo dự báo của Viện 
này, đến năm 2025, ngành Du lịch Việt 
Nam sẽ cần bổ sung 620.000 lao động, 
năm 2025 cần thêm khoảng 2.090.000 
lao động. 
Chất lượng nguồn nhân lực du lịch:
Theo Báo cáo xếp hạng năng lực 
cạnh tranh ngành lữ hành và du lịch của 
Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF, chỉ số cạnh 
tranh về nguồn nhân lực và thị trường lao 
động của Việt Nam chỉ đạt 4,8 điểm, xếp 
hạng 47/140 quốc gia, thuộc nhóm trung 
bình cao trên thế giới và chỉ cao hơn Lào 
và Campuchia trong khu vực ASEAN. Chỉ 
số xếp hạng về mức độ sẵn sàng về công 
nghệ thông tin và truyền thông chỉ đạt 4,3 
điểm, xếp hạng 83/140, thuộc nhóm trung 
bình thấp (WEF, 2019). Trong khu vực 
ASEAN, các thứ hạng này chỉ được xếp 
trước trước Lào và Campuchia. 
Các chỉ số xếp hạng phản ánh khá 
chính xác thực trạng chất lượng nguồn 
nhân lực du lịch ở Việt Nam. Theo thống 
kê của Viện Nghiên cứu và phát triển du 
lịch, tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên 
môn về du lịch chỉ chiếm 42% tổng số 
lao động trực tiếp trong toàn ngành, 38% 
lao động được chuyển sang từ các ngành 
khác và khoảng 20% chỉ được huấn luyện 
tại chỗ mà không qua đào tạo chính quy. 
Trong số lao động qua đào tạo chuyên 
môn về du lịch, chỉ có 10% có trình độ 
đại học và sau đại học, 50% có trình độ 
từ sơ cấp đến trung cấp và 40% chỉ được 
bồi dưỡng thông qua các lớp ngắn hạn. 
Về trình độ ngoại ngữ của nguồn nhân lực 
du lịch, toàn ngành có khoảng 60% nhân 
lực lao động du lịch biết và sử dụng được 
ngoại ngữ, nhưng chỉ 15% trong số này có 
thể sử dụng thành thạo. Về trình độ công 
nghệ, toàn ngành có khoảng 60% lao động 
có khả năng sử dụng máy tính và các thiết 
bị phục vụ công việc, nhưng chủ yếu gắn 
với các công việc giản đơn (Nguyễn Văn 
Đính, 2019). 
Như vậy, có thể thấy nguồn nhân lực 
du lịch còn thiếu hụt rất lớn về số lượng 
và còn nhiều hạn chế về mặt chất lượng. 
Trước sự phát triển nhanh chóng của dòng 
khách du lịch, trước những tác động của 
làn sóng công nghệ mới trên toàn cầu, 
việc chủ động phát triển nguồn nhân lực 
du lịch cả về số lượng lẫn chất lượng là hết 
sức cấp thiết.
4. Một số yêu cầu đặt ra đối với 
việc phát triển nguồn nhân lực du lịch 
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về 
CMCN 4.0 và yêu cầu mới về năng lực 
của nhân lực lao động trong lĩnh vực du 
lịch để chủ động học tập và đổi mới: 
Đội ngũ nhân lực trong toàn ngành 
phải nhận thức được đúng đắn về CMCN 
4.0 và ý thức được sự tác động của làn sóng 
công nghệ mới lên ngành du lịch, lên từng 
vị trí việc làm là tất yếu. Từ đó, mỗi nhân 
lực làm việc trong ngành cần chủ động, 
nỗ lực trong học tập và đổi mới, nâng cao 
kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng 
nghề nghiệp, trình độ sử dụng công nghệ 
mới. Theo đó, đổi mới tư duy và phương 
thức làm việc để thích ứng với những đòi 
hỏi mới, đảm bảo hiệu quả lao động.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính 
sách, điều chỉnh quy hoạch phát triển 
nguồn nhân lực du lịch phù hợp với tình 
hình mới: 
Chính phủ cần rà soát, điều chỉnh, 
ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn 
cụ thể về nhiệm vụ phát triển nguồn nhân 
lực du lịch trong bối cảnh CMCN 4.0 như 
84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
các chính sách về đào tạo, đãi ngộ, khen 
thưởng... nhằm tạo ra hành lang pháp lý 
thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân 
lực. Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực 
du lịch cần được cập nhật, điều chỉnh trên 
kết quả dự báo và tính toán những tác động 
của CMCN 4.0 đến thị trường khách, đến 
các đối thủ cạnh tranh, đến thị trường lao 
động (định lượng các nhóm vị trí việc làm 
mới xuất hiện, các nhóm việc làm bị triệt 
tiêu, năng lực cần thiết đối với từng nhóm 
nghề nghiệp) để xác định những yêu cầu 
cụ thể về số lượng và chất lượng nguồn 
nhân lực trong bối cảnh mới. 
Thứ ba, nâng cao năng lực đào tạo 
cải thiện chất lượng đào tạo nguồn nhân 
lực du lịch đối với các cơ sở đào tạo:
Áp dụng cơ chế đặc thù trong đào 
tạo du lịch, thực hiện đổi mới nội dung 
chương trình, phương pháp và phương 
thức đào tạo gắn với các yêu cầu mới của 
thị trường lao động. Tăng cường ứng dụng 
các công nghệ tiên tiến trong đào tạo nhân 
lực du lịch, đồng thời gắn nội dung đào 
tạo với yêu cầu cụ thể, cập nhật của các 
nhóm vị trí việc làm trong ngành. Các 
cơ sở đào tạo cần chú trọng đào tạo nhân 
lực chất lượng cao, nhân lực quản lý các 
cấp. Đẩy mạnh liên kết đào tạo giữa nhà 
trường với doanh nghiệp và triển khai các 
mô hình đào tạo trong doanh nghiệp du 
lịch, đảm bảo hiệu quả của hoạt động đào 
tạo và đào tạo lại. 
Thứ tư, cải thiện hệ thống hạ tầng 
công nghệ và hệ thống thông tin của 
ngành du lịch:
 Cải thiện hệ thống hạ tầng công 
nghệ đảm bảo tính liên thông và tăng 
cường khả năng tiếp cận, sử dụng công 
nghệ của nhân lực lao động trong ngành. 
Đồng thời cần hình thành, xây dựng hệ 
thống thông tin thị trường lao động du lịch 
để đẩy mạnh sự kết nối cung - cầu, nâng 
cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động 
trong lĩnh vực du lịch. 
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế, 
tăng cường hợp tác công tư:
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc 
tế, tăng cường hợp tác công tư trong 
phát triển nhân lực du lịch thông qua các 
chương trình trao đổi chuyên gia, đào tạo, 
bồi dưỡng, hợp tác đầu tư hạ tầng đào tạo, 
hạ tầng công nghệ... nhằm nâng cao trình 
độ nhân lực, cải thiện khả năng ứng dụng 
các công nghệ mới trong quản lý, kinh 
doanh du lịch và các công việc khác. 
Du lịch phát triển và sự bùng nổ của 
cuộc CMCN 4.0 không chỉ mang lại cơ 
hội mà còn tạo ra những thách thức rất 
lớn cho ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt 
là trong việc phát triển nguồn nhân lực 
đáp ứng với tình hình mới. Bằng cách chủ 
động đổi mới tư duy và hành động trong 
công tác phát triển nhân lực du lịch - vừa 
đảm bảo đủ số lượng vừa đảm bảo được 
chất lượng nguồn nhân lực, du lịch Việt 
Nam mới thực sự có nền tảng vững chắc 
để khẳng định vai trò “mũi nhọn” trong 
nền kinh tế quốc dân và phát triển một 
cách bền vững.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Đính (2019), Nhân lực du lịch 
Việt Nam trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 
4.0, Kỷ yếu HTKH, Viện Nghiên cứu Phát triển 
Du lịch.
2. Tổng cục Du lịch (2011), Chiến lược phát 
triển triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm 
nhìn 2030, Hà Nội
3. World Economic Forum (2019), The Travel 
and Tourism Competitiveness Report. 
Địa chỉ tác giả: Khoa Du lịch - Trường Đại 
học Mở Hà Nội
Email: maintt@hou.edu.vn 
CONTENTS
RESEARCH - EXCHANGE OF OPINION
Nguyen Thi Thu Mai
Nguyen Anh Quan
Sustainable tourism development 
in the world heritage tourism 
destination - The scenic landscape 
complex of Trang An
1
Tran Thu Phuong
Research on state management 
for community-based 
tourism development in some 
Northwestern provinces of 
Vietnam
13
Vu Huong Giang
Sustainable tourism destination 
management - some theoretical 
issues and management 
suggestions
39
Pham Dieu Ly
Nguyen Thi Thao
An overview of strategies for 
promoting student engagement in 
online English courses
59
Nguyen Thi Thu Mai
Nguyen Thi Thuyet
Hoang Duy Anh
Tourism human resource 
development in context of the 
fourth industrial revolution
75
EDITOR-IN-CHIEF
LE VAN THANH
DEPUTY EDITOR-IN-CHIEF
NGUYEN MAI HUONG
TRUONG TIEN TUNG
EDIT.SECRETARY &
ADMIN. HEAD
PHAM THI TAM
EDITORIAL BOARD
Le Van Thanh
Truong Tien Tung
Nguyen Mai Huong
Nguyen Thi Nhung
Duong Thang Long
Nguyen Cao Chuong
Nguyen Kim Truy
Pham Minh Viet
Nguyen Thanh Nghi
Thai Thanh Son
Nguyen Van Thanh
Hoang Dinh Hoa
Nguyen Lan Huong
Hoang Tuyet Minh
Pham Thi Tam
Tran Huu Trang
Melinda Bandalaria
Mansor Bin Fadril
Kutuzov V.M
Editoral Office
B101 - Nguyen Hien Str. -
Hai Ba Trung Dist. - Hanoi
Tel: 04.38691587
Fax: 04.38691587
License No. 342/GP-BTTTT
Dated 3rd - September 2013
Printed in: An Viet Land CO., LTD.
Summited for copyright
registration in October 2020.
Price: 30.000VND
NO 72
10 - 2020
ISSN 0866 - 8051
JOURNAL OF SCIENCE
HANOI OPEN UNIVERSITY

File đính kèm:

  • pdftap_chi_khoa_hoc_truong_dai_hoc_mo_ha_noi_so_72_thang_102020.pdf