Tài liệu Sáng kiến quản lý về giới và chính sách kinh tế ở châu Á – Thái Bình Dương: Giới và kinh tế học vĩ mô
i. cơ bản về kinh tế học vĩ Mô
Mục tiêu: giúp học viên nắm được kiến thức cơ bản về kinh tế học vĩ mô cổ
điển mới.
Kinh tế học vĩ mô cổ điển mới tự khẳng định là nghiên cứu về kinh tế
nói chung, tập trung vào các hoạt động được tổng hợp từ các hộ gia
đình, các doanh nghiệp và chính phủ, tập hợp quyết định từ nhiều cá
nhân qua đó xác định tổng chi tiêu, thu nhập, và sản xuất hàng hóa và
dịch vụ của một nền kinh tế. Do đó, nó là tổng của các quá trình kinh tế
vi mô. Học thuyết và phân tích kinh tế học vĩ mô chia nền kinh tế thành
hai khu vực: nền kinh tế sản xuất (thực tế) và nền kinh tế tài chính (tiền
tệ). Các chính sách kinh tế vĩ mô có tác động khiến hai khu vực kinh tế
trên sẽ tác động qua lại như thế nào, với mục tiêu duy trì sự ổn định giữa
các biến số là nền tảng của kinh tế vĩ mô trong lúc cùng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế - mà quá trình này sẽ khiến một số hoặc toàn bộ biến số
nền tảng của kinh tế vĩ mô tăng lên. Thông qua thúc đẩy tăng trưởng,
các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ tạo ra các tiền đề giúp cải thiện phúc lợi
cá nhân.
Nền kinh tế sản xuất kết hợp lao động, vốn, các yếu tố sản xuất khác (đất
đai, năng lượng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên) và công nghệ để
sản xuất các sản phẩm kinh tế để trao đổi và tạo thành tổng sản phẩm
quốc nội (GDP). Nền kinh tế sản xuất cũng được xem là có thực bởi các
yếu tố của sản xuất cũng như sản phẩm đầu ra trong nền kinh tế này
là hàng hoá, vật chất thật. Khu vực nhà nước tham gia như một phần
trong nền kinh tế thực tế và được chính sách tài khóa đảm bảo ngân
sách hoạt động – thông qua chính sách của chính phủ liên quan đến chi
tiêu và thuế của chính phủ.4
Nền kinh tế tài chính gồm các hoạt động kinh tế liên quan đến phát
hành các tài sản tài chính và sự trao đổi các tài sản này, như là cổ phiếu
và trái phiếu. Chính phủ tác động đến nền kinh tế tài chính thông qua
chính sách tiền tệ - chính sách liên quan đến tổng cung tiền và lãi suất,
ảnh hưởng tới tổng cầu về tiền và các tài sản tài chính khác cũng như
hiệu suất chung của nền kinh tế tài chính.
Mối quan hệ giữa nền kinh tế thực tế và nền kinh tế tài chính, cũng như
vai trò của chính phủ tác động lên mối quan hệ đó là chủ đề của một số
tranh luận trong kinh tế học vĩ mô, song các mối quan hệ đó vẫn tồn tại:
ví dụ, mức lãi suất ấn định trong khuôn khổ chính sách tiền tệ tác động
tới quá trình sản xuất hàng hoá và cả việc làm trong nền kinh tế thực.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Sáng kiến quản lý về giới và chính sách kinh tế ở châu Á – Thái Bình Dương: Giới và kinh tế học vĩ mô
Liệu điều này có cần thiết? 2. Liệu đây có phải một ý tưởng hay? Yếu tố quan trọng 6. Chúng ta cần phải mở rộng cách mà chúng ta đo lường tiến độ phát triển bền vững bằng việc xây dựng chỉ số phát triển bền vững hoặc bộ chỉ số. 729 Câu hỏi thảo luận: 1. Các học phần trước đã nhấn mạnh một số vấn đề từ phương pháp tiếp cận ‘một bài thuốc chữa bách bệnh’. Bạn có thấy vấn đề gì khi xây dựng một chỉ số hoặc một bộ chỉ số với kỳ vọng có thể áp dụng tại tất cả các quốc gia, gồm cả vấn đề là ai sẽ chịu trách nhiệm xác định những điểm nên đưa vào và không nên đưa vào khi xây dựng chỉ số này? Ở phần cuối thảo luận, giáo viên sẽ tổng kết lại các chủ đề chung nổi bật lên từ các ý kiến phát biểu. 30 iii. kinh tế học vĩ Mô có nhẠY cảM Giới Mục tiêu: giúp học viên có thể giải thích những khái niệm quan trọng của nền kinh tế vĩ mô có lồng ghép giới. a. vai trÒ cỦa cônG việc chĂM Sóc khônG đƯỢc trả cônG trOnG cÁc dÒnG LƯu chuYỂn kinh tế vĩ Mô A. Như đã được chứng minh ở Học phần 1 và 3, các hộ gia đình là nơi diễn ra các công việc chăm sóc cũng như những công việc khác không được trả lương – là các hoạt động sản xuất bị loại bỏ khỏi các mô hình kinh tế vĩ mô đã được thảo luận ở trên. B. Các hộ gia đình không chỉ chi tiêu thu nhập của mình vào hàng hóa được sản xuất ra. Không có các công việc chăm sóc không được trả lương, rất nhiều hàng hóa tiêu dùng (ví dụ: thực phẩm) có thể không được tiêu thụ và như thế sản xuất và bán các hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp có thể sẽ không xảy ra bởi sản xuất phụ thuộc vào công việc chăm sóc không được trả lương của các hộ gia đình để có lao động có khả năng chế biến thức ăn. C. Do vậy phân tích kinh tế vĩ mô cần bao gồm nhân công như yếu tố của sản xuất, diễn ra trong các hộ gia đình và cần có công việc chăm sóc không được trả lương và sự phân bổ các nguồn tài nguyên thực sự cho đầu tư trong khả năng của nhân công, hay được biết đến dưới tên gọi khác là nguồn nhân lực. D. Công việc chăm sóc không được trả lương cũng diễn ra bên ngoài hộ gia đình ở dạng công việc tình nguyện, truyền thống 731 hay trợ giúp cộng đồng không được trả lương đóng góp vào duy trì các luật lệ, tập quán và giá trị trách nhiệm công dân và cộng đồng xã hội. b. vai trÒ cỦa Giới trOnG cÁc biến SỐ cỦa kinh tế học vĩ Mô 1. Giả định các hộ gia đình hoạt động theo một cách thống nhất trong nền kinh tế vĩ mô, nhưng như được chứng minh ở Học phần 1 và 3, giả thuyết này có thể không bền vững. 2. Sự phân công lao động trong nội bộ các hộ gia đình giữa nữ giới và nam giới xác định sự phân công lao động giữa nền kinh tế sản xuất và tài chính và các hoạt động của hộ gia đình. Do đó các mối quan hệ về giới phân chia thị trường lao động; như được chứng minh trong Học phần 5 về Thị trường Lao động và Việc làm, công việc chăm sóc không được trả lương gây ảnh hưởng và bị các phân đoạn trên thị trường lao động ảnh hưởng đến, và các hộ gia đình có vai trò quan trọng là trung gian điều hòa mối quan hệ giữa hai loại lao động này. Điều này tác động đến sản xuất, năng suất và thu nhập (Y), lần lượt gây ảnh hưởng đến tiêu dùng (C), đầu tư (I), tiết kiệm (S) và phân phối đầu ra/sản phẩm. 3. Vì vậy, khi tổng hợp các biến kinh tế vĩ mô – tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm – có thể gặp hiện tượng phân biệt về giới một cách có hệ thống. Có nhiều bằng chứng ủng hộ luận điểm này. 32 c. dÒnG LƯu chuYỂn có nhẠY cảM Giới 1. Kinh tế vĩ mô có tính nhạy cảm giới tái định nghĩa nền sản xuất kinh tế sản phẩm/ hàng hóa của quốc gia bằng việc thêm một lĩnh vực – lĩnh vực chăm sóc trong hộ gia đình và cộng đồng – vào quan niệm truyền thống của kinh tế như là sự tương tác của khu vực tư nhân (ví dụ: doanh nghiệp quy mô lớn và nhỏ) với khu vực công (ví dụ: chính phủ). Mỗi khu vực này có thể được xem như là một nền kinh tế trong quyền hạn riêng của mình. 2. Khu vực phi chính thức vẫn không được tính, và khu vực tự cung tự cấp / sinh kế cũng không được tính, dù rằng đã có các luật lệ của SNA về hàng rào sản xuất. Điều này có những hàm ý về giới cần phải được tìm hiểu. 3. Khu vực tư nhân cung cấp tiêu dùng (C) và đầu tư (I), hàng hóa và dịch vụ cho khu vực công và khu vực chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng. Khu vực tư nhân được thị trường điều chỉnh. 4. Khu vực công cung cấp đầu tư cơ sở hạ tầng cả về xã hội và vật chất (G) được sử dụng cho tiêu dùng và đầu tư trong cả khu vực tư nhân lẫn khu vực chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng. Khu vực công tác động đến dòng lưu chuyển thu nhập và sản phẩm. Nó được thị trường điều tiết, nhưng ít hơn khu vực tư nhân. Mô hình việc làm trong khu vực công có thể có nhiều hàm ý về giới cần phải được tìm hiểu. 5. Khu vực chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng sản xuất ra các hàng hóa và dịch vụ cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng sử dụng. Nó hỗ trợ cho khu vực tư nhân và khu vực công thông qua cung cấp nguồn nhân lực có khả năng làm việc cũng như nguồn vốn xã hội. Nữ giới làm việc không công trong mảng chăm sóc gia đình và cộng đồng. Lĩnh vực này không được thị trường điều chỉnh, nhưng được các công ước và chuẩn mực xã hội quy định, phản ánh mối quan hệ bất bình đẳng giữa nữ giới, những người thuộc giới thứ ba và nam giới. Mô hình về lao động này bị ảnh hưởng bởi yếu tố giới và cần phải tìm hiểu thêm. 733 DòNG LưU CHUyểN MANG TÍNH NHạy CẢM GIỚI Tiêu thụ và đầu tư hàng hóa Sự hình thành tài sản xã hội Đầu tư vật chất và xã hội Đầu tư vật chất và xã hội Chính phủ Các doanh nghiệp và thị trường Chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng d. dÒnG LƯu chuYỂn có nhẠY cảM Giới trOnG Môi trƯờnG kinh tế Các dòng lưu chuyển về môi trường kinh tế và có tính nhạy cảm giới có thể được tích hợp vào trong sơ đồ dòng lưu chuyển thể hiện cả vốn tự nhiên lẫn công việc không được trả công. Dòng lưu chuyển môi trường kinh tế có tính nhạy cảm giới bao trùm các mối quan hệ giữa khu vực chăm sóc trong hộ gia đình và cộng đồng, chính phủ, các doanh nghiệp và thị trường có cả phần thêm vào và thất thoát gây ảnh hưởng đến và bị nguồn dự trữ tài nguyên thiên nhiên tác động. Học viên được khuyến khích nghiên cứu và vẽ lại dòng lưu chuyển nhạy cảm giới đã được mô tả ở phần III.C và sau đó bổ sung thêm dòng lưu chuyển môi trường kinh tế đã được mô tả ở phần II. 34 DòNG LưU CHUyểN MÔI TrườNG KINH TẾ Có TÍNH NHạy CẢM GIỚI Rác thải và ô nhiễm Tiêu thụ và đầu tư hàng hóa Sự hình thành tài sản xã hội Tiêu thụ và đầu tư hàng hóa Tiêu thụ và đầu tư hàng hóa Chính phủ Các doanh nghiệp và thị trường Chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng Các nguồn năng lượng và tài nguyên thiên nhiên Tái chế tự nhiên Sinh quyển Tái chế công nghiệp Năng lượng mặt trời Biến đổi khí hậu Học viên được khuyến khích thảo luận trước lớp về dòng lưu chuyển môi trường kinh tế có tính nhạy cảm giới với đầy đủ chi tiết để chắc chắn rằng tất cả các học viên đều nắm rõ về các mối quan hệ mà nó mô tả. 735 E. cÁc tÁc độnG vĩ Mô có tÍnh nhẠY cảM Giới: SuY nGhĩ về chÍnh SÁch 1. Dòng lưu chuyển môi trường kinh tế có nhạy cảm giới là khái niệm tương đối mới, được phát triển gần đây trong kinh tế học và không có sự đồng thuận nào về làm thế nào để chính thức công nhận mối quan hệ giữa các khu vực công, tư nhân và khu vực chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng và mối quan hệ của chúng với hệ sinh thái kinh tế. Lồng ghép giới trong phân tích kinh tế vĩ mô trong những hiểu biết về nền kinh tế tài chính cũng gây tranh cãi. 2. Rõ ràng là nền kinh tế không được trả công gây tác động đến hiệu quả của khu vực tư nhân, về cả các hoạt động thực tế lẫn tài chính, cũng như là hiệu quả của khu vực công. Đơn giản là, nếu các công việc không công bị dừng lại, nền kinh tế hàng hóa tư nhân và dịch vụ công sẽ không thể hoạt động được. 3. Một thực tế rõ ràng khác là những thay đổi trong nền kinh tế thực tế và tài chính cũng tác động đến nền kinh tế chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gần đây, các công việc không công tăng lên trong các hộ gia đình có vai trò như mạng lưới an toàn xã hội vô hình đối với những người thất nghiệp bị thải hồi do những sai lầm của thị trường trong khu vực tư nhân, được gộp với cắt giảm của chính phủ về dịch vụ, khiến các công việc không được trả lương càng tăng lên. 4. Do không có sự đồng thuận, cần một điểm khởi đầu theo đó xem xét động lực kinh tế vĩ mô từ góc độ giới tức là rà soát kiến thức sâu sắc quan trọng được xây dựng trước đó trong học phần này. Chi tiêu nội địa (C + I) buộc phải có công việc không được trả lương. Điều này có nghĩa trong ngắn hạn, thiếu khả năng cung cấp một lượng tương đối công việc không được trả công có thể là nguồn gốc của sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô. Nó cũng cho thấy trong dài hạn, nếu số lượng công việc không 36 công giảm đi thì những công việc được trả công sẽ phải tăng lên tương ứng nhằm tránh mất cân bằng kinh tế vĩ mô. Cần phải nghiên cứu các chính sách về tổng cung và tổng cầu được thiết kế để tái cấu trúc tỷ lệ chi tiêu nội địa từ góc độ hiệu quả của chúng trong nền kinh tế chăm sóc hộ gia đình và cộng đồng. Các chính sách về tổng cầu nỗ lực để giảm thiểu chi tiêu có thể được xác định dựa trên sự gia tăng không được thừa nhận các công việc chăm sóc không công, với các hàm ý về bình đẳng giới. Các chính sách về tổng cầu nỗ lực tăng chi tiêu cũng có thể được nhận dạng theo các cách như tái phân phối và giảm thiểu tối đa công việc chăm sóc không công, với các hàm ý về bình đẳng giới. Các chính sách về tổng cung thúc đẩy tăng hiệu quả sản xuất cũng như tương tác giữa số nhân và gia tốc cũng bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ giới. Sự kết hợp giữa đầu tư và các chính sách này sẽ mang lại mức tăng tương ứng lớn hơn trong đầu ra và thu nhập được xác định dựa trên sự mở rộng các công việc được trả lương đồng thời cũng thúc đẩy các công việc không được trả lương tăng lên – hoặc cũng có thể không xảy ra bởi thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề do không sử dụng lao động nữ, hay thiếu đầu tư vào giáo dục cũng như các khóa tập huấn về kỹ năng dành cho nữ giới. Ngoài ra, các chính sách về tổng cung có thể xác định khi các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng giúp giảm thiểu công việc chăm sóc không công và như thế, sẽ thúc đẩy cơ hội có các công việc được trả lương và nâng cao sản xuất. Lo-gic tương tự cũng đúng với các tiếp cận chính sách đối với khoảng chênh lệch ngoại hối: nên đánh giá từ góc độ tác động đối với công việc chăm sóc không công, bởi sự bất bình đẳng giới không được giải thích thấu đáo có thể hạn chế thu hẹp khoảng chênh lệch này cùng với các ảnh hưởng xấu đến khoản nợ quốc gia. 737 Do tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, cũng cần thiết rà soát lại về ý nghĩa của đầu tư. Trong nền kinh tế vĩ mô, đầu tư là chi tiêu ở thời điểm hiện tại nhằm trì hoãn tiêu dùng hiện tại để gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Vì thế chi tiêu cho giáo dục và y tế không được xem là khoản đầu tư vì chi tiêu trong thời điểm hiện tại làm tăng tiêu dùng về giáo dục và chăm sóc y tế cùng thời điểm. Tuy nhiên, thực tế chứng minh rằng chi tiêu đầu tư xã hội về y tế và giáo dục tạo ra dòng lợi ích trong tương lai; do nguồn nhân lực được bồi đắp và giúp nâng cao năng suất, tiêu dùng trong tương lai sẽ tăng lên. Có nhiều bằng chứng ủng hộ cho quan điểm này. Sự tương tác giữa số nhân và gia tốc từ khoản đầu tư vào nguồn nhân lực có thể là ví dụ điển hình cho đầu tư xã hội dành cho nữ giới nhằm giảm các công việc chăm sóc không công, có những hàm ý về bình đẳng giới. Cần phải được cân nhắc cơ cấu đồng nhất hai khoảng chênh lệch (I – S = M – X) từ góc độ giới. Khoản tiết kiệm không đầy đủ để cấp vốn cho khoảng chênh lệch tiết kiệm và đầu tư có thể xuất hiện trong các mô hình tiết kiệm có phân biệt về giới, như bằng chứng đã chứng minh, về tổng thể, nữ giới tiết kiệm nhiều hơn nam giới. Cũng cần phải cân nhắc tính chất của đầu tư: Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực nữ có các tác động đối với bình đẳng giới và năng suất trong dài hạn. Cũng rất quan trọng để lồng ghép những động lực về giới này trong thực tế rằng khi duy trì sự sống, con người khai thác nhiều năng lượng và vật chất khác nhau từ môi trường và thải ra nhiều rác. Gần đây, tổn thất trong môi trường tự nhiên đã vượt quá tái sinh, trong đó lượng rác thải và ô nhiễm sinh ra vượt quá khả năng tái sinh của hệ sinh thái, và kết quả là biến đổi khí hậu đang diễn ra từng ngày. Chính sách kinh tế vĩ mô cần phải đánh giá các giải pháp nhằm thiết lập lại sự cân bằng giữa tái sinh và khai thác tự nhiên ở mức độ tổng tiêu thụ thấp hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên. Dẫu sao thì cũng phải đề cập ở điểm cuối cùng này, là khi xem xét hoạt động của nền kinh tế vĩ mô, cần thiết phải cân nhắc xem liệu có tồn tại 38 khoảng chênh lệch đáng quan tâm mà chính sách có thể – hoặc phải – giải quyết. Một kết luận quan trọng đó là cần củng cố quan điểm cho rằng điểm khởi đầu đối với nền kinh tế vĩ mô có tính nhạy cảm giới là bắt đầu phân tích từ góc độ ở đó các mối quan hệ hiển thị ở phần lớn các biến số kinh tế vĩ mô. Sản xuất (X), thu nhập (Y), tiêu dùng (C), đầu tư (I), tiết kiệm (S) và sự phân bố của đầu ra phải được xem xét như là kết quả của cấu trúc phổ biến trong các mối quan hệ giới – có thể định nghĩa như khu vực thứ ba trong nền kinh tế – phản ánh và được phản ánh trong phân bố các công việc chăm sóc không được trả công. Do đó, như đã được lưu ý ở Học phần 3, năng lực của một nền kinh tế cung cấp lượng đầy đủ về chăm sóc là một hạn chế quan trọng đối với hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thực, và sự cung cấp chăm sóc có thể được xác định dựa trên sự bất bình đẳng về giới. 739 thaM khảO Baker, I., 1994. The Strategic Silence: gender and economic policy. Zed Books. Benería, L. 2003. Gender, Development, and Globalization: Economics as if All People Mattered. London: Routledge. Daly, H. E., Economics in a Full World. Available at: Elson, D. and N. Cagatay. 2000. ‘The Social Content of Macroeconomics.’ World Development. Volume 28, No. 7, Pages 1347–1364. Gutiérrez, M., ed. 2003. Macro-Economics: Make Gender Matter. London: Zed. Ostrom, E. 2009. ‘A General Framework for Analyzing Sustainability of Social-Ecological Systems.’ SCIENCE. Volume 325, 24 July. Available at: www.sciencemag.org Waring, M. and K. Sumeo. 2010. Economic Crisis and Unpaid Care Work in the Pacific. Paper prepared for UNDP Pacific Conference on the Human Face of the Global Economic Crisis, 10-12 February, Port Vila. Ecological Economics – available at: ecolecon New Economics Foundation (NEF) – available at: org World Resources Forum – available at: org Th án g 2, 2 01 4 Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc 25-29 Phan Bội Châu Hà Nội, Việt Nam Tel: (84 4) 3942 1495 Fax: (84 4) 3942 2267 Email: registry.vn@undp.org www.undp.org.vn
File đính kèm:
- sang_kien_quan_ly_ve_gioi_va_chinh_sach_kinh_te_o_chau_a_tha.pdf