Tài liệu học tập Marketing căn bản (Phần 2)
MỤC ĐÍCH CHƯƠNG
Sau khi nghiên cứu và học tập chương này, sinh viên cần nắm được:
- Quan niệm về sản phẩm trong Marketing, các cấp độ cấu thành sản phẩm, các
cách phân loại sản phẩm.
- Nội dung các quyết định liên quan đến sản phẩm về nhãn hiệu, bao bì, chủng loại
danh mục sản phẩm và dịch vụ khách hàng
- Khái niệm, phân loại và các bước phát triển một sản phẩm mới trên thị trường
- Đặc điểm các giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm và sự tác động của chúng
tới các quyết định Marketing của doanh nghiệp
NỘI DUNG CHƯƠNG
6.1. SẢN PHẨM THEO QUAN ĐIỂM MARKETING
6.1.1. Khái niệm sản phẩm
Hiểu và mô tả đúng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp đưa ra bán trên thị
trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hệ thống marketing hỗn hợp của
doanh nghiệp.
Việc xác định đúng sản phẩm, hàng hoá có ảnh hưởng lớn đến khả năng tiêu thụ
và khai thác cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường khi nói về sản phẩm
hàng hoá các doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến “hàng hoá hiện vật” hay “hàng hoá
cứng” mà doanh nghiệp đang chế tạo hay kinh doanh, tức là nó chỉ bao hàm những thành
phần hoặc yếu tố có thể quan sát được. Quan điểm này đã dẫn đến những hạn chế về khả
năng tiêu thụ cũng như hạn chế về khả năng phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiếp cận và mô tả sản phẩm, hàng hoá theo quan điểm của marketing là một quan
điểm hoàn thiện hơn trong việc mô tả sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp khi doanh
nghiệp muốn tăng cường khả năng cạnh tranh và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Chúng ta đều biết rằng, mục tiêu mua một sản phẩm nào đó của khách hàng là
nhằm thoả mãn nhu cầu của họ, để thoả mãn nhu cầu khách hàng luôn quan tâm đến tất
cả các khía cạnh khác nhau xoay quanh sản phẩm cơ bản mà người bán đưa ra cho họ
trước, trong và sau khi mua hàng. khách hàng luôn muốn sự thoả mãn toàn bộ nhu cầu
chứ không chỉ quan tâm đến một bộ phận đơn lẻ. Trong trường hợp này thì theo khách
hàng sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm tất cả các yếu tố vật chất (hiện vật) và phi vật
chất (dịch vụ) và các yếu tố khác có liên quan mà doanh nghiệp đã đưa ra để thoả mãn
nhu cầu cụ thể của họ.92
Như vậy theo quan điểm của marketing, sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp có
thể được định nghĩa như sau:
Sản phẩm, hàng hoá là bất cứ những cái gì có thể thoả mãn được nhu cầu hay
mong muốn của khách hàng và được chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự
chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng.
Theo quan niệm này, hàng hóa bao hàm cả những vật thể hữu hình và vô hình (các
dịch vụ), bao hàm cả những yếu tố vật chất và phi vật chất. Ngay cả những sản phẩm hữu
hình thì cũng bao hàm cả những yếu tố vô hình. Có thể liệt kê thế giới sản phẩm, bao
gồm: các sản phẩm vật chất và dịch vụ do các ngành trong nền kinh tế quốc dân tạo ra, sự
kiện, con người, địa điểm, tổ chức, ý tưởng và tổng hợp. Như vậy, sản phẩm có thể hoàn
toàn hữu hình, chủ yếu là vô hình (dịch vụ) hoặc kết hợp cả hai. Hình thức cuối cùng là
phổ biến.
Như vậy sản phẩm có thể là:
- Một chiếc xe máy: đáp ứng nhu cầu đi lại
- Một kiểu tóc mới: đáp ứng nhu cầu làm đẹp
- Chuyến đi du lịch: đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi
- Biểu diễn của các ngôi sao ca nhạc: đáp ứng nhu cầu giải trí
- Dịch vụ giải đáp điện thoại: đáp ứng nhu cầu thông tin
Như vậy, sản phẩm cho dù được thiết kế, cải tiến và hoàn thiện như thế nào bao
giờ cũng là sản phẩm cho người tiêu dùng, vì người tiêu dùng, để đảm bảo rằng thông
qua việc tiêu dùng sản phẩm khách hàng sẽ nhận được những giá trị sử dụng, những lợi
ích mà người ta mong đợi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu học tập Marketing căn bản (Phần 2)
Các hoạt động xúc tiến bán hàng có thể được thực hiện đối với mọi đối tượng có khả năng mua hàng hay có ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người khác. Chúng ta có thể phân biệt các đối tượng sau: - Người mua hàng: Xúc tiến bán hàng sẽ thúc đẩy người mua hàng bằng những điều kiện mua bán hấp dẫn. - Người tiêu thụ: trong nhiều trường hợp người tiêu thụ không phải là người mua hàng. Ví dụ: người tiêu thụ là trẻ con, đối tượng quan trọng và ưu tiên của việc khuyến mại. Trẻ con rất nhạy cảm với trò chơi, những món quà với việc khuyến mại nói chung. Ảnh hưởng của trẻ con đến quyết định mua hàng của cha mẹ chúng đôi khi rất lớn. - Người có ảnh hưởng: Trẻ con có thể vừa là người tiêu thụ vừa là người có ảnh hưởng 166 - Người bán hàng: cũng như người có ảnh hưởng đến khách mua hàng, người bán hàng có khả năng tác động lên quyết định mua hàng của khách mua hàng - Các nhà phân phối 9.4. QUAN HỆ CÔNG CHÚNG 9.4.1. Bản chất và chức năng của quan hệ công chúng Quan hệ công chúng (Public relations, viết tắt là PR) là việc một cơ quan tổ chức hay doanh nghiệp chủ động quản lý các quan hệ giao tiếp cộng đồng để tạo dựng và giữ gìn một hình ảnh tích cực của mình. Các hoạt động quan hệ công chúng bao gồm các việc quảng bá thành công, giảm nhẹ ảnh hưởng của các thất bại, công bố các thay đổi, và nhiều hoạt động khác. Có thể hiểu PR là: Tạo các mối liên hệ ảnh hưởng đối với môi trường bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp. Công chúng bao gồm các tầng lớp nhân dân sinh sống trong xã hội. VD: người hâm mộ, cổ động viên đội bóng đá... Công chúng theo nghĩa đối tượng trọng tâm ảnh hưởng đến doanh nghiệp: (1) Khách hàng hiện tại và tiềm năng (Ví dụ: người uống Pepsi) (2) Cơ quan truyền thông báo chí (các đài truyền hình, báo viết, đài phát thành, báo điện tử Internet, ...) (3) Chính quyền (chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, quận, huyện, sở, bộ, ...) (4) Dân chúng trong khu vực (5) Các đoàn thể (công đoàn, đảng phái, đoàn, ...) (6) Hội bảo vệ người tiêu dùng, ... (7) Cổ đông của doanh nghiệp (8) Cán bộ, nhân viên doanh nghiệp Quan hệ công chúng là các hoạt động nhằm: - Tiếp xúc (Họp báo, hội nghị khách hàng) - Lắng nghe (khách hàng nói về sản phẩm) - Trao đổi, truyền đạt (về ảnh hưởng của sản phẩm đối với người tiêu dùng, ...) - Tạo lập hình ảnh và ấn tượng (tài trợ học bổng cho sinh viên, tổ chức cuộc thi cúp truyền hình, ...) - Các hoạt động hướng về công chúng được doanh nghiệp quy hoạch theo từng thời điểm: có thể rộng hay hẹp với các đối tượng. Quan hệ công chúng là một chức năng quản trị nhằm mục đích thiết lập, duy trì sự truyền thông hai chiều, sự hiểu biết, chấp nhận và hợp tác giữa một tổ chức và "công chúng" của họ. 167 Quan hệ công chúng bao gồm sự quản lý những vấn đề hay sự kiện mà tổ chức cần phải nắm được dư luận của quần chúng và có trách nhiệm thông tin cho họ. Hơn thế nữa PR còn là một trong những công cụ hỗ trợ bán hàng hữu hiệu đối với tất cả các doanh nghiệp, tổ chức hoặc cá nhân. Những người muốn tạo ra một tầm ảnh hưởng nhất định của mình đối với những đối tượng nhất định. Tuỳ vào mục đích của mình và đối tượng mà mình muốn tác động, các tổ chức hoặc cá nhân này sẽ có những cách thức và hình thức tiếp cận khác nhau: có thể tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội như các hoạt động từ thiện, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng do các tổ chức hoạt động nhằm mục đích xã hội tổ chức nhằm tạo ra hình ảnh một tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm với công đồng; hoặc cũng có thể tham gia dưới hình thức một nhà tài trợ mạnh tay luôn thấy xuất hình ảnh trong các chương trình có quy mô lớn như các cuộc thi hoa hậu, các hội chợ triển lãm tầm cỡ... Tất cả những hình thức đó nhằm tạo ra một hình ảnh đẹp, nổi bất và rộng khắp về bản thân tổ chức hoặc cá nhân với mong muốn thông qua những hình ảnh được đánh bóng đó, công chúng sẽ trở nên gần gũi và dành nhiều thiện cảm, quan tâm hơn tới họ Sức hấp dẫn của các quan hệ công chúng xuất phát từ ba đặc điểm sau: – Tín nhiệm cao. Nội dung và tính chất của thông tin có vẻ xác thực và đáng tin cậy hơn đối với người đọc so với quảng cáo - Không cần cảnh giác. Quan hệ công chúng có thể tiếp cận đông đảo khách hàng tiềm năng mà họ thường né tránh tiếp xúc với nhân viên bán hàng và quảng cáo. Thông điệp đến với người mua dưới dạng tin sốt dẻo. – Giới thiệu cụ thể. Giống như quảng cáo, quan hệ công chúng có khả năng giới thiệu cụ thể doanh nghiệp hay sản phẩm. Những người làm marketing có xu hướng đánh giá thấp quan hệ công chúng, hay sử dụng nó như một công cụ sau cùng. Tuy vậy, một chương trình quan hệ công chúng có suy tính kỹ lưỡng phối hợp vói các yếu tố khác của hệ thống cổ động có thể đạt được hiệu quả rất to lớn. 9.4.2. Các công cụ chủ yếu của quan hệ công chúng - Bài viết trên báo chí, bài phát biểu - Hội thảo - Quyên góp từ thiện - Các ấn phẩm, tạp chí doanh nghiệp - Báo cáo hàng năm - Tài trợ, bảo trợ - Quan hệ cộng đồng - Các sự kiện đặc biệt. 168 * Ưu nhược điểm của quan hệ công chúng - Quan hệ công chúng tạo nhận thức có lợi của công chúng về sản phẩm. Các mục tiêu của quan hệ công chúng là khuyếch trương sản phẩm, tạo lập hình ảnh tốt về doanh nghiệp và xử lý, chặn đứng những tin đồn và sự kiện bất lợi. + Người tiêu dùng cho rằng các bài phóng sự xác thực hơn và đáng tin cậy hơn so với hình thức quảng cáo cố định + Quan hệ công chúng đến được với nhiều khách hàng là những người không chú ý tới quảng cáo hay tới những nhân viên bán hàng. Thông điệp đến với họ là tin tức chứ không phải một thông báo bán hàng. - Quan hệ công chúng cũng tốn kém nên các doanh nghiệp có vốn kinh doanh lớn mạnh thường dùng công cụ khuyếch trương này. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhỏ thường không sử dụng tối đa quan hệ công chúng, tuy chương trình quan hệ công chúng tốt có thể là tác nhân cực kỳ hiệu quả trong khuyếch trương sản phẩm hỗn hợp. Quan hệ công chúng giống như quảng cáo có thể kịch bản hoá sản phẩm hoặc kịch bản hoá doanh nghiệp. 9.5. BÁN HÀNG CÁ NHÂN 9.5.1. Bản chất và chức năng bán hàng cá nhân Bán hàng cá nhân, một phương thức giao tiếp trực tiếp và cá nhân trong đó người bán hàng cố gắng để trợ giúp hoặc thuyết phục khách hàng mua sản phẩm hoặc tạo thiện cảm của khách hàng đối với doanh nghiệp để ảnh hưởng đến hành động mua hàng trong tương lai. Bán hàng cá nhân là một công cụ có hiệu quả nhất về chi phí trong những giai đoạn cuối của quá trình mua sắm, đặc biệt là trong việc tạo dựng sự ưa thích của người mua, niềm tin và dẫn đến hành động mua hàng. Nguyên do là so với quảng cáo thì bán hàng trực tiếp có ba đặc điểm khác biệt sau: – Trực diện. Bán hàng trực tiếp đòi hỏi mối quan hệ sinh động, trực tiếp và qua lại giữa hai hay nhiều người. Mỗi bên tham dự có thể nghiên cứu trực tiếp những nhu cầu và đặc điểm của nhau và có những điều chỉnh tức thời. – Xây dựng quan hệ. Bán hàng trực tiếp cho phép thiết lập nhiều mối quan hệ, từ quan hệ mua bán thông thường đến quan hệ bạn bè thân thiết. Những người đại diện bán hàng giỏi thường phải thực lòng quan tâm đến khách hàng, nếu họ muốn có quan hệ lâu dài. – Phản ứng đáp lại. Bán hàng trực tiếp làm cho người mua thấy có bổn phận lắng nghe lời chào hàng. Người mua cần phải chú ý nghe và đáp lại, cho dù chỉ là một lời cảm ơn lịch sự. Tuy nhiên, để có được những lợi thế đó, lực lượng bán hàng đòi hỏi một 169 khoản chi phí lâu dài lớn hơn so với quảng cáo. Quảng cáo có thể bắt đầu và kết thúc, nhưng quy mô của lực lượng bán hàng thì rất khó thay đổi. Không giống như quảng cáo, bán hàng cá nhân có sự liên hệ trực tiếp giữa người bán và người mua, và sự tiếp xúc trực tiếp. sự tương tác này cho phép các chuyên gia marketing linh hoạt trong việc truyền thông, giao tiếp, người bán hàng có thể nhìn hoặc nghe những phản hồi của khách hàng tiềm năng và điều chỉnh thông điệp cho phù hợp với họ. Phương tiện truyền thông được cá nhân hóa trong bán hàng cá nhân cho phép người bán thiết kế thông điệp cho từng nhu cầu và hoàn cảnh cụ thể của khách hàng. Bán hàng cá nhân cho phép xử lý các phản hồi của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác bởi vì tác động của việc bán hàng có thể được quyết định từ phản hồi của khách hàng 9.5.2. Quá trình bán hàng cá nhân Trước khi lựa chọn và đào tạo nhân viên bán hàng, nhà quản lý phải hiểu biết về quy trình bán. Tất nhiên, quy trình bán hàng sẽ thay đổi theo quy mô của doanh nghiệp, bản chất sản phẩm, đặc điểm thị trường, và nhiều thứ khác, nhưng vẫn có một số chỉ dẫn chung cho hầu hết các tình huống bán hàng. Những chỉ dẫn đó xoay quanh hai nội dung cơ bản: bán hàng là một chuỗi các giai đoạn hoặc bước công việc mà người bán nên tuân thủ theo trong nỗ lực bán hàng hóa và dịch vụ, bán hàng cần theo đuổi một tập hợp các nguyên tắc cơ bản mà nếu trung thành với nó sẽ làm tăng them khả năng thành công của hoạt động bán Theo cách tiếp cân truyền thống, bán hàng cá nhân liên quan tới một công thức hay là quá trình nhiều bước. Nó được biết với cái tên công thức AIDAS: tạo sự chú ý của khách hàng, đánh thức sự quan tâm của khách hàng tiềm năng, kích thích ước muốn của khách hàng tiềm năng về sản phẩm, tạo quyết định mua, tạo dựng sự hài lòng. Theo quá trình giao dịch, bán hàng có nghĩa là giúp khách hàng thực hiện việc mua. Điều đó, có nghĩa quá trình mua của khách hàng thường bao gồm 5 giai đoạn, do đó người bán hàng có thể ảnh hưởng đến hành vi của khách hàng tại tất cả các giai đoạn của quy trình này. Quá trình bán hàng là các bước của công việc bán hàng mà một nhân viên bán hàng phải thực hiện bao gồm: Tìm kiếm và đánh giá khách hàng, chuẩn bị trước khi tiếp xúc với khách hàng, tiếp xúc khách hàng, giới thiệu sản phẩm chào bán, ứng xử với những phản đối, kết thúc bán hàng và hoạt động sau bán hàng. 170 Sơ đồ 9.3: Quá trình bán hàng cá nhân 9.6. MARKETING TRỰC TIẾP 9.6.1. Bản chất marketing trực tiếp Marketing trực tiếp là phương thức sử dụng các phương tiện truyền thông để các tổ chức có thể giao tiếp trực tiếp với khách hàng mục tiêu nhằm tạo ra sự phản hồi hay giao dịch của khách hàng tại mọi địa điểm Marketing trực tiếp có thể coi là phương thức marketing mới có phạm vi hoạt động rộng hơn là một công cụ của xúc tiến hỗn hợp. Tuy nhiên, bởi vì nó trở thành một phần không thể thiếu của chương trình truyền thông tích hợp của nhiều tổ chức và thường liên quan tới các mục tiêu, ngân sách và chiến lược riêng biệt, vì vậy chúng ta xem như marketing trực tiếp là một yếu tố thuộc xúc tiến hỗn hợp. Marketing trực tiếp không chỉ đơn thuần là gửi thư trực tiếp và đặt hàng theo catalog qua thư. Nó bao gồm rất nhiều các hoạt động: quản lý cơ sở dữ liệu, bán hàng trực tiếp, bán hàng qua điện thoại và phản hồi trực tiếp qua gửi thư trực tiếp, internet và các quảng cáo truyền hình và phương tiện truyền thông in ấn Đặc điểm của Marketing trực tiếp: – Không công khai. Thông điệp thường đưọc chuyển đến một người cụ thể và không đến với những người khác. – Theo ý khách hàng. Thông điệp có thể được soạn thảo theo ý khách hàng để hấp dẫn cá nhân người nhận. – Cập nhật. Có thể soạn thảo và gửi thông điệp rất nhanh cho người nhận. 9.6.2. Các hình thức marketing trực tiếp Những người làm marketing trực tiếp sử dụng các phương tiện quảng cáo trả lời trực tiếp để bán hàng và tìm hiểu về các khách hàng có tên và các đặc điểm chủ yếu đã được nhập vào cơ sở dữ liệu khách hàng nhằm thiết lập mối quan hệ thường xuyên. Các hãng hàng không, các khách sạn và các doanh nghiệp khác đang thiết lập những quan hệ chặt chẽ với khách hàng thông qua những hình thức thưởng vì có tần suất sử dụng cao và sử dụng cơ sở dữ liệu về khách hàng để chào hàng đến từng khách hàng, gồm các khách Tìm kiếm và đánh giá KH tiềm năng Chuẩn bị trước khi tiếp xúc Tiếp xúc với KH Giới thiệu hàng hóa Ứng xử với phản hồi của KH Kết thúc bán hàng Hoạt động sau bán hàng 171 hàng hiện có và cả những khách hàng tiềm năng. Các hình thức phổ biến của marketing trực tiếp là: marketing bằng catalog, marketing bằng thư trực tiếp, marketing đáp ứng trực tiếp trên truyền hình, truyền thanh, báo và tạp chí, mua hàng điện tử, mua hàng bằng máy đặt hàng tại các cửa hàng, sân bay... Câu hỏi thảo luận Câu 1: Bản chất của truyền thông marketing Câu 2: Trình bày nội dung chủ yếu của các công cụ truyền thông Câu 3: Quảng cáo là gì? Sự khác biệt giữa quảng cáo và xúc tiến bán hàng? Phân tích các bước thực hiện một chương trình quảng cáo? Câu 5: Trình bày bản chất và chức năng của Quan hệ công chúng? Câu 6: Xúc tiến bán hàng là gì? Trình bày các hình thức xúc tiến bán hàng? BÀI TẬP ỨNG DỤNG Tình huống: Tại Liverpool nước Anh có một nhà buôn bán pho-mát tên là Lipton. Trước lễ Giáng sinh, để bán được nhiều pho-mát cứ 50 gói có một gói ông ta để vào đó một đồng bảng Anh rồi cho người đi thông báo tin này khắp mọi nơi. Thế là hàng nghìn hàng vạn người tiêu dùng đổ xô đến cửa hàng Lipton chuyên bán pho mát của ông ta. Cách làm này đã bị các nhà buôn bán khác phản đối và cảnh sát can thiệp. Lipton đã tiên đoán trước được điều đó. Ông liền cho dán ngay một bản thông báo lên trên các cửa hàng đại lý của mình “Các bạn thân mến! Xin cám ơn các bạn đã dùng pho mát của Lipton. Nếu phát hiện thấy có đồng bảng Anh, xin mang trả lại. Xin cám ơn sự hợp tác của tất cả các bạn.” Quảng cáo vừa đưa ra, khách hàng càng kéo đến ào ào. Sau này, khi được ủy ban sức khỏe người tiêu dùng khuyến cáo, Lipton lại cho đăng báo quảng cáo sau “Xin quý vị chú ý khi ăn bên trong có đồng bảng Anh, chớ nên ăn vội vàng, cần hết sức cẩn thận để khỏi nuốt nhầm, nguy hiểm lắm.” Quảng cáo đưa ra, khách hàng càng kéo đến ào ào trước sự kinh ngạc của tất cả các cửa hàng bán pho-mát khác. Thế là đối thủ cạnh tranh không làm cách nào mà có thể kiện ông ta được. Câu hỏi: 1. Phân tích các biện pháp nhằm đẩy mạnh bán hàng của Lipton? Lipton đã thực hiện các biện pháp xúc tiến khuếch trương nào? 2. Dựa vào cơ sở nào để Lipton thực hiện các biện pháp trên? Liệu các biện pháp này có thể sử dụng và thành công lâu dài không? 172 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu của tác giả trong nước: 1. GS.TS Trần Minh Đạo: Giáo trình Marketing căn bản, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2017 2. Nguyễn Tiến Dũng: Giáo trình Marketing căn bản, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012 3. Nguyễn Văn Hùng, Giáo trình Marketing căn bản, NXB KT TPHCM, 2013. 4. Vũ Đắc Độ, Marketing lý thuyết và thực hành, NXB CT- HC, 2009. 5. Business Edge, Nghiên cứu thị trường_ Giải mã nhu cầu khách hàng, NXB Trẻ, 2006 Tài liệu của tác giả nước ngoài: 1. Gary Armstrong, Stewart Adam, Sara Denize, Michael Volkov, Philip Kotler, Principles of Marketing, Pearson, 2017 2. Philip Kotler, Gary Amstrong, Nguyên lý tiếp thị, NXB Lao động xã hội, 2012. 3. Philip Kotler, Bàn về tiếp thị, Nhà xuất bản Trẻ, 2011
File đính kèm:
- tai_lieu_hoc_tap_marketing_can_ban_phan_2.pdf