Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Trung học phổ thông - Nội dung bồi dưỡng II: Dạy học phân hoá môn Toán trung học phổ thông
1.1. Vì sao phải đổi mới PPDH?
1.1.1. Nhƣợc điểm của PPDH truyền thống
- Thầy thuyết trình còn nhiều.
- Tri thức được truyền thụ dưới dạng có sẵn.
- Thầy áp đặt, trò thụ động.
- Thiên về dạy, yếu về học, thiếu hoạt động tự giác, tích cực và sáng tạo
của HS.
- Không kiểm soát được việc học.
1.1.2. Nhu cầu cần thiết phải đổi mới PPDH
- Xu hướng chung của thế giới ngày nay là toàn cầu hóa và kinh tế tri
thức.
- Mâu thuẫn giữa yêu cầu đào tạo con người xây dựng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước với thực trạng lạc hậu của PPDH đã làm nảy sinh một
cuộc vận động đổi mới PPDH ở tất cả các cấp trong ngành giáo dục.
- Hiện đại hóa giáo dục không những chỉ sử dụng các phương tiện kỹ
thuật, công nghệ hiện đại, song cái chính là thay đổi tư duy giáo dục, xác định
lại quan niệm về mục tiêu, đào tạo nhà trường. Từ đó thay đổi cung cách dạy,
học, và PPDH, nội dung, tổ chức và quản lí giáo dục nhằm xây dựng một nền
giáo dục phù hợp với yêu cầu của xã hội trong kỷ nguyên kinh tế tri thức.
1.1.3. Cơ sở đổi mới PPDH1.1.4.Thế nào là đổi mới phƣơng pháp dạy học
Đổi mới PPDH là một trong những nội dung của đổi mới giáo dục phổ
thông. Dựa trên khái niệm chung về PPDH, có thể hiểu: đổi mới PPDH là cải
tiến những hình thức và cách thức làm việc kém hiệu quả của GV và HS, sử
dụng những hình thức và cách thức hiệu quả hơn nhằm nâng cao chất lượng
dạy và học, phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực của
HS.
PPDH tích cực không phải là một phương pháp dạy học cụ thể, chuyên
biệt nào đó, cũng không phải là sự phủ nhận các phương pháp dạy học truyền
thống mà là muốn nhấn mạnh một định hướng khai thác mặt tích cực của các
phương pháp dạy học hiện có.
Đổi mới PPDH theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS
không có nghĩa là gạt bỏ, loại trừ, thay thế hoàn toàn các PPDH truyền thống,
hay “nhập nội” một PP nào mà phải kế thừa, phát triển những mặt tích cực
của PPDH hiện có đồng thời phải học hỏi, vận dụng một số PPDH mới một
cách sáng tạo, linh hoạt nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS,
phù hợp với điều kiện dạy và học cụ thể.
Đổi mới PPDH là đổi mới vị trí người học từ thụ động sang chủ động;
từ thầy và kiến thức làm trung tâm sang trò và kĩ năng cần đào tạo (năng lực
hành động, năng lực ứng xử, năng lực tự học, năng lực thích nghi .) làm trung
tâm, GV là người giúp đỡ, tổ chức, hướng dẫn.
Đổi mới PPDH bao gồm đổi mới PPDH đối với giáo viên và đổi mới
PPDH đối với HS.
* Đổi mới PPDH đối với giáo viên bao gồm:
- Đổi mới việc lập kế hoạch dạy học, thiết kế bài dạy;
- Đổi mới PPDH trên lớp học;
- Đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
* Đổi mới PPDH đối với học sinh là đổi mới PP học tập của học sinh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Trung học phổ thông - Nội dung bồi dưỡng II: Dạy học phân hoá môn Toán trung học phổ thông
c tập, chủ yếu là theo những hướng sau: (i) Chính xác hoá mục tiêu. (ii) Tuần tự nâng cao yêu cầu. (iii) Tạm thời hạ thấp yêu cầu khi cần thiết. (iv) Dạy học phân hoá. CHƢƠNG 3 DẠY HỌC PHÂN HOÁ MÔN TOÁN Ở TRƢỜNG THPT 3.1. Thực trạng dạy học phân hoá môn toán ở trƣờng phổ thông Đổi mới phương pháp dạy là một vấn đề đã được đề cập và bàn luận rất sôi nổi từ nhiều thập kỷ qua. Những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học đã được định hướng theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động người học dưới sự điều khiển của người giáo viên. Học sinh tự giác tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt sáng tạo các kiến thức kỹ năng đã thu được. Nhưng những định hướng này mới chỉ đến được người giáo viên qua tài liệu mang tính lí thuyết hơn là hướng dẫn thực hành, do vậy người giáo viên đã có thực hiện, nhưng chưa vận dụng trên cơ sở khoa học. Hiện tượng giáo viên đổi mới phương pháp dạy học chỉ để đáp ứng nhu cầu đặt ra trước mắt, hình thức dạy học phân hoá chưa phong phú và sự chuẩn bị bài giảng của giáo viên trước khi lên lớp cũng sơ sài nên hiệu quả đạt được là chưa cao. Trong quá trình đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết, cần thực hiện ngay trong những tiết học đồng loạt nhằm phát hiện và bồi dưỡng những tài năng toán học cho đất nước. Từ trước đến nay hầu hết giáo viên chỉ dừng lại trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh loại trung bình trong lớp nắm được bài mà chưa thực sự quan tâm bồi dưỡng đến đối tượng học sinh khá giỏi, yếu kém bởi tư tưởng lười đổi mới, sợ kiến thức nặng, ngại đầu tư thời gian nghiên cứu sẽ rất thiệt thòi cho các em có năng khiếu toán chưa phát huy hết khả năng của mình. Chính vì vậy, khi xây dựng nội dung bài học, giáo viên nên căn cứ vào mức độ nhận thức chung của học sinh trong lớp để đưa ra các câu hỏi phân hóa hoặc bài tập phân hóa phù hợp. 3.2. Định hướng về dạy học phân hoá môn toán ở trường phổ thông Ra bài tập phân hóa là để cho các đối tượng học sinh khác nhau có thể tiến hành các hoạt động khác nhau với trình độ khác nhau, giáo viên có thể phân hóa yêu cầu bằng cách sử dụng mạch bài tập phân bậc, giao cho học sinh giỏi những bài tập có hoạt động ở bậc cao hơn so với các đối tượng học sinh khác. Hoặc ngay trong một bài tập, ta có thể tiến hành dạy học phân hóa nếu bài tập đó bảo đảm yêu cầu hoạt động cho cả 3 nhóm đối tượng học sinh và bài tập phân hoá nhằm mục đích: Đối với học sinh trung bình, yếu kém thường biểu hiện không nắm được kiến thức và kỹ năng cơ bản thì bộc lộ những sai lầm nghiêm trọng và lỗ hổng kiến thức. Đối với bản thân học sinh khá giỏi có năng lực học tập toán; các em có khả năng học toán thường có xu hướng thích giải nhiều bài toán, thích giải các bài toán khó, các bài toán đòi hỏi tư duy sáng tạo, nhưng lại coi nhẹ việc học lý thuyết, coi nhẹ các bài toán thông thường và chủ quan, lơ là và dẫn đến sai lầm trong khi giải toán. Từ đó bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém, trang bị kiến thức chuẩn cho học sinh trung bình và nâng cao kiến thức cho học sinh khá, giỏi. Ví dụ: Khi học về giải các phương trình vô tỉ cơ bản, ta có thể ra ra bài tập như sau: a) Giải phương trình: (5 x)(2x 4) x 2 (1) b) Giải phương trình: 3x 3 5 x 2x 4 (2) c) Từ nghiệm của (1) hãy viết nghiệm của phương trình: 2 2 23x 9x 3 5 3x x 2x 6x 4 (3) d) Xây dựng cách giải của phương trình bậc nhất theo hàm số u(u là biểu thức có chứa x) au b cu d mu n Yêu cầu: Học sinh yếu kém giải được ý (a), kiến thức cơ bản SGK, dưới sự dẫn dắt của thầy giáo. Học sinh TB giải ý (b), mức độ yêu cầu cơ bản của SGK. Học sinh khá, giỏi thực hiện giải ý (c), (d) trên cơ sở kiến thức cơ bản. Việc xây dựng và áp dụng những bài tập kiểu phân hoá này trong giờ học không những giúp cho học sinh hoạt động học tập phù hợp với trình độ của mình, khơi dậy niềm tin ở khả năng bản thân. Bên cạnh đó, kiến thức của mỗi đối tượng học sinh khám phá đều liền mạch, do đó học sinh yếu vừa được quan tâm bồi dưỡng kiến thức cơ bản vững chắc, vẫn có thể theo dõi tiếp thu các kiến thức từ hoạt động của đối tượng học sinh trung bình hay khá giỏi, đồng thời học sinh khá giỏi vẫn phát huy hết khả năng tư duy của mình và được tập luyện đào sâu lý thuyết thông qua hoạt động của học sinh trung bình hay yếu kém. Mặt khác, thời gian mà giáo viên sử dụng dạy học bài tập phân hóa này cho tất cả các đối tượng học sinh trong giờ học vẫn được đảm bảo hợp lý, đây là một yếu tố quan trọng góp phần thành công của giờ học. Tuy nhiên, để có những bài tập đảm bảo yêu cầu trên, người giáo viên cần nắm chắc kiến thức trọng tâm của từng bài và chuẩn bị tài liệu, đầu tư công sức, thời gian cho bài soạn một cách chu đáo, kỹ lưỡng. Tránh tư tưởng đồng nhất trình độ dẫn đến đồng nhất nội dung học tập cho mọi đối tượng học sinh. + Cũng có thể phân hóa về mặt số lượng: Để chiếm lĩnh một kiến thức hay rèn luyện một kỹ năng nào đó, một số học sinh cần nhiều loại bài tập cùng loại hơn một số học sinh khác. Nên ra đủ liều lượng bài tập như vậy cho từng loại đối tượng học sinh. Những học sinh còn thừa thời gian, đặc biệt học sinh giỏi sẽ nhận thêm những bài tập khác để đào sâu và nâng cao. Ví dụ: Khi học về bất phương trình, chứa ẩn trong dấu căn bậc hai ta có thể ra bài tập như sau: a. 22(x 16) 10 2x b. 22(x 16) 7 x x 3 x 3 x 3 c. 2x x x x x 2(5 16) 7 5 5 3 5 3 5 3 d. x 1 x x 115.2 1 2 1 2 Đối với học sinh yếu kém, trung bình thì phải giải thứ tự từ ý (a) cho tới ý (c), nhưng đối với học sinh khá giỏi thì có thể giải ý (a) rồi chuyển sang ý (c) và (d) 3.3. Điều hành các hoạt động cho học sinh trong giờ dạy học phân hoá 3.3.1. Phân nhóm học sinh - Có hai kiểu phân nhóm là phân nhóm theo khu vực (phân nhóm hỗn hợp: phân nhóm theo bàn, theo tổ hoặc theo dãy bàn) và phân nhóm theo trình độ nhận thức của học sinh trong lớp (phân nhóm theo đối tượng, nhận thức khá giỏi, nhận thức trung bình và nhận thức yếu kém). Trong hoạt động phân nhóm theo khu vực có ưu điểm giúp học sinh hòa mình vào hoạt động tập thể tạo điều kiện cho học sinh có lực học yếu dễ ỉ lại, lười suy nghĩ. Hoạt động nhóm theo trình độ nhận thức phát huy tối đa khả năng hoạt động cá biệt hoá đến từng cá nhân người học, mang tính vừa sức, giáo viên dễ dàng kiểm soát mức độ học tập của mỗi học sinh, có thể đánh giá khách quan, chính xác. Tùy theo từng tình huống dạy học mà giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo hình thức phân nhóm nào để giờ học đạt hiệu quả cao nhất. Biện pháp phân nhóm theo khu vực: Đây là hình thức dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 6 đến 7 học sinh hoặc có thể là một tổ, một dãy ... tùy thuộc vào mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề dạy học, có thể duy trì cả tiết học hay thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học, các nhóm được giao cùng nhiệm vụ hay được giao các nhiệm vụ khác nhau. Mỗi nhóm tự bầu ra một nhóm trưởng nếu cần thiết. Biện pháp phân nhóm theo đối tượng học sinh là hình thức phân nhóm theo trình độ nhận thức của từng học sinh, việc phân nhóm này gặp nhiều khó khăn hơn. Giáo viên cần phân loại nhận dạng được những nhịp độ nhận thức của của mỗi học sinh và qui về những nhóm đặc trưng như nhóm nhịp độ nhận thức nhanh, nhịp độ nhận thức chậm, hay trung bình. Để phân loại được các đối tượng này một cách chính xác phải có biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về khả năng lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, đánh giá . . . . Trong quá trình học tập, giáo viên thường xuyên theo dõi để điều chỉnh lại nhân sự của nhóm cho phù hợp với trình độ phát triển của mỗi học sinh trong lớp học. 3.3.2. Thiết kế nội dung theo chủ đề * Thiết kế bài giảng: Cần nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu bài học, thiết kế các pha dạy học đồng loạt, cần sử dụng hệ thống câu hỏi phân hóa để giúp tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng tham gia tìm hiểu nội dung bài học. Khi ra các bài tập phân hóa, cần phải dựa vào trình độ nhận thức của học sinh mà lựa chọn các bài tập thích hợp nhằm bồi dưỡng cho học sinh yếu kém "lấp những lỗ hổng", kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình, kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi. * Xét các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình dạy học như môi trường, phương tiện, điều kiện dạy học, cần quan tâm đến các phương tiện dạy học và phối hợp sử dụng chúng sao cho có hiệu quả nhằm phát huy tối đa sức mạnh của phương tiện dạy học khi tổ chức các pha dạy học phân hóa. * Tổ chức các pha dạy học đồng loạt ngay trong những giờ lên lớp gồm tất cả các phương pháp dạy học nhưng đòi hỏi phải có sự vận dụng linh hoạt, kết hợp, sử dụng các phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học chương trình hóa, phương pháp vấn đáp ... Cần xây dựng các câu hỏi phân hóa làm phương tiện để thực hiện bài giảng cho tất cả các đối tượng học sinh dựa vào nhịp độ nhận thức. Ta có thể kết hợp giữa nhóm phân hóa với các nhóm hỗn hợp về trình độ tùy theo yêu cầu của mỗi hoạt động. Thông qua các hình thức này, các thành viên trong nhóm đều rèn luyện cách thức làm việc để cùng tiến hành những hoạt động chung, cùng thực hiện một nhiệm vụ chung, trong đó có sự phân công nhiệm vụ, có sự trao đổi ý kiến, có diễn đạt, lý giải, thuyết phục để tìm ra con đường hoặc phương án giải quyết. Chúng ta cần chú ý: + Hướng dẫn cho học sinh cách thức làm việc theo nhóm, có giao lưu ý kiến, có phân công phân nhiệm, có người điều khiển, chịu trách nhiệm. + Cần thay đổi vai trò người thực hiện và người kiểm tra, thay đổi phân công phân nhiệm để tập cho mọi người có thể hiện nhiều chức năng khác nhau, hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau. + Cần gây cho mọi thành viên trong nhóm có thể quen kiểm tra và tự kiểm tra rút kinh nghiệm trong hoạt động. Tuy nhiên ngay trong các pha dạy học đồng loạt cũng cần có đối xử cá biệt, khuyến khích học sinh yếu kém trả lời những câu hỏi dễ, những câu hỏi mang tính gợi mở. Đặt học sinh khá giỏi và những tình huống phán đoán, câu hỏi có tính tìm tòi, phát huy trí tuệ. Tất cả các câu hỏi phải có tác dụng dẫn dắt, khuyến khích học sinh tích cực suy luận, không đơn điệu, phân hóa song vẫn tác động đến nhiều đối tượng với tác dụng khác nhau. Tổ chức các nhóm tham gia tổ chức các nhóm tham gia hoạt động giải bài tập phân hóa, đây là khâu quan trọng và thể hiện rõ nhất vai trò của hình thức hoạt động nhóm đối tượng. Cần phải tổ chức hoạt động này theo một qui trình chặt chẽ, cụ thể, yếu tố thời gian đặc biệt được chú trọng. Học sinh trong các nhóm được giao nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực nhận thức, hứng thú học tập của mình trên cơ sở kiến thức cơ bản. Hệ thống bài tập phân hóa được chọn lọc, có sự liên kết, từ thấp và được nâng cao dần đảm bảo tư duy học sinh được liền mạch, hệ thống. 3.3.3. Các bước tiến hành trong dạy học mỗi chủ đề Bước 1: Nêu phương pháp giải cho mỗi chủ đề. Bước 2: Ra bài tập phân hoá cho mỗi chủ đề. Bước 3: Phân công bài tập về từng nhóm học sinh (3 nhóm ). Bước 4: Tổng kết và bổ sung lời giải của từng nhóm. Bước 5: Ra bài tập phân hoá tương tự. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Hoàng Chúng (1990), Rèn luyện khả năng sáng tạo toán ở trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Bá Kim, Vương Dương Minh, Tôn Trần (1998), Khuyến khích một số hoạt động trí tuệ cho học sinh qua môn Toán ở trường THCS, Nxb Giáo dục. 3. Nguyễn Bá Kim (2002), Những xu hướng dạy học không truyền thống, tài liệu bồi dưỡng giáo viên, Hà Nội. 4. Nguyễn Bá Kim (2006), Phương pháp dạy học môn Toán, Nxb Đại học Sư phạm. 5. Ngô Thúc Lanh, Đoàn Quyên, Nguyễn Đình Chi (2000), Từ điển toán học thông dụng, Nxb Giáo dục. 6. Hoàng Lê Minh (2004), "Phân bậc hoạt động trong dạy học môn toán", Tạp chí Giáo dục, số 86, tháng 5. 7. Đoàn Quỳnh, Nguyễn Huy Đoan, Nguyễn Xuân Liêm, Đặng Hùng Thắng, Trần Văn Vuông (2007), Đại số 10- Nâng cao, Nxb Giáo dục. 8. Nguyễn Bá Kim (2002), Những xu hướng dạy học không truyền thống, tài liệu bồi dưỡng giáo viên, Hà Nội. 9. Nguyễn Bá Kim (2006), Phương pháp dạy học môn Toán, Nxb Ðại học Sý phạm. 10. Ngô Thúc Lanh, Ðoàn Quyên, Nguyễn Ðình Chi (2000), Từ điển toán họcthông dụng, Nxb Giáo dục. 11. Hoàng Lê Minh (2004), "Phân bậc hoạt ðộng trong dạy học môn toán", Tạp chí Giáo dục, số 86, tháng 5. 12. Ðoàn Quỳnh, Nguyễn Huy Ðoan, Nguyễn Xuân Liêm, Ðặng Hùng Thắng, Trần Vãn Vuông (2007), Đại số 10- Nâng cao, Nxb Giáo dục. 13. Chỉ đạo chuyên môn giáo dục trường THPT, tài liệu tham khảo dùng cho cán bộ QLGD của Bộ Giáo dục và Đào tạo 14. Phương pháp dạy học môn toán - Nguyễn Bá Kim - Nhà xuất bản Đại học sư phạm. 15. Tài liệu bồi dưỡng tổ chuyên môn trong trường THCS và THPT, tài liệu lưu hành nội bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 16. Tập đề cương bài giảng cán bộ quản lí giáo dục. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 DANH MỤC VIẾT TẮT ..............................................................................4 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỔI MỚI PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC........ 5 1.1. Vì sao phải đổi mới PPDH?................................................................... 5 1.2. Một số vấn đề đặt ra đối với GV trong quá trình đổi mới PPDH ......... 7 1.3. Một số hạn chế trong quá trình đổi mới PPDH .................................... 13 1.4. Định hướng đổi mới PPDH nhằm phát huy tính tích cực của HS ........ 17 1.5. So sánh phương pháp dạy học tích cực và phương pháp dạy học truyền thống ............................................................................................................ 21 CHƢƠNG 2. DẠY HỌC PHÂN HOÁ ....................................................... 2.1. Tư tưởng chủ đạo về dạy học phân hoá ................................................ 25 2.2. Dạy học phân hóa nội tại ...................................................................... 2.3. Những hình thức dạy học phân hoá ................................................. 2.4. Vai trò của dạy học phân hoá ............................................................... 32 2.5. Quy trình dạy học phân hoá ................................................................. 2.6. Phân bậc hoạt ðộng trong dạy học môn toán ....................................... 44 CHƢƠNG 3. DẠY HỌC PHÂN HOÁ MÔN TOÁN Ở TRƢỜNG THPT.... 46 3.1 Thực trạng dạy học phân hoá môn toán ở trường phổ thông ................ 46 3.2. Định hướng về dạy học phân hoá môn toán ở trường phổ thông ... 46 3.3. Điều hành các hoạt động cho học sinh trong giờ dạy học phân hoá .... 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................53 MỤC LỤC ....................................................................................................54
File đính kèm:
- tai_lieu_boi_duong_thuong_xuyen_giao_vien_trung_hoc_pho_thon.pdf