Tác động của hiệp định VPA/FLEGT đến các làng nghề gỗ ở Việt Nam
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA),
với cam kết cắt giảm thuế quan mạnh mẽ, sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm gỗ
của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh khi tiếp cận thị trường Châu Âu (EU). Song để
được xuất khẩu vào thị trường này, các sản phẩm gỗ phải đảm bảo về các quy tắc xuất xứ,
hợp pháp và quản lý rừng bền vững. Nhằm duy trì sự ổn định và hướng tới mở rộng thị
trường EU trong tương ai, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định Đối tác tự nguyện về
thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) với EU năm
2018. Việc thực thi VPA/FLEGT sẽ gi p nâng cao năng ực cạnh tranh, th c đẩy thương
mại gỗ và sản phẩm gỗ giữa Việt Nam và EU, song nó cũng tạo ra áp lực rất lớn đối với
ngành sản xuất gỗ của Việt Nam nói chung và hoạt động sản xuất gỗ ở các làng nghề thủ
công nói riêng. Bài viết này, sẽ giới thiệu khái quát về Hiệp định VPA/FLEGT và phân tích
tác động của nó đến hoạt động sản xuất và kinh doanh gỗ ở các làng nghề gỗ thủ công ở
Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp giúp các làng nghề khắc ph c những khó
khăn hiện tại để tuân thủ các yêu cầu của Hiệp định.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của hiệp định VPA/FLEGT đến các làng nghề gỗ ở Việt Nam
hộ SXKD thay đổi công nghệ, cải tiến phương pháp sản xuất cũng như nâng cao thức của người lao động để tiết kiệm nguyên liệu sản xuất. Sự thay đổi này giúp giải quyết tình trạng khai thác và buôn bán gỗ trái phép, góp phần phát triển bền vững ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam. 3.2.2. Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực, VPA/FLEGT cũng có những tác động tiêu cực đến tất cả các hộ SXKD có sản phẩm gỗ xuất khẩu cũng như những đối tượng liên quan. 641 Trước hết, thực thi VPA/FLEGT sẽ khiến chi phí sản xuất tăng cao. Theo yêu cầu của Hiệp định, 100% sản phẩm gỗ xuất khẩu vào EU phải hợp pháp. Dù các doanh nghiệp hay hộ gia đình sử dụng nguyên liệu trong nước hay nhập khẩu, đều phải đảm bảo hồ sơ, giấy tờ, chứng minh tính hợp pháp. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn và tốn kém thêm chi phí cho các doanh nghiệp và các hộ SXKD gỗ tại các làng nghề. Trong những năm qua, Việt Nam đã nhập khẩu gỗ từ trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ với 120 loài gỗ khác nhau. Việc xác định tiêu chí loài rủi ro, vùng địa lý rủi ro khi xây dựng các quy định về kiểm soát chuỗi cung gỗ nhập khẩu là điều không dễ dàng. Bên cạnh đó, muốn truy xuất nguồn gốc rõ ràng các doanh nghiệp, các hộ gia đình phải thực hiện thêm nhiều công đoạn và thủ tục giấy tờ pháp lý (xin giấy phép, lấy và xuất hóa đơn, lưu giữ giấy tờ, hồ sơ xác minh,) khiến cho giá gỗ nguyên liệu và chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Hơn nữa, để đáp ứng các quy định về sử dụng lao động (hợp đồng lao động, các chế độ với người lao động, vệ sinh an toàn lao động,), các quy định về môi trường, phòng chống cháy nổ tại các xưởng gỗ,các doanh nghiệp, hộ SXKD ở các làng nghề phải đầu tư thêm nguồn lực và tốn k m thêm chi phí để đào tạo và nâng cao ý thức, năng lực của người lao động để thực hiện các quy định đó. Tiếp theo, tuân thủ quy định của VPA/FLEGT có thể gây ra tình trạng giảm mức sản xuất của các hộ SXKD ít nhất là trong ngắn, đặc biệt là các hộ có quy mô nhỏ và/hoặc chưa chính thức. Hiệp định VPA sẽ yêu cầu các hộ phải có giấy phép kinh doanh, có hồ sơ gỗ hợp pháp, tuân thủ các điều kiện về môi trường và an toàn cháy nổ và hợp đồng thuê nhân công chính thức,Tuy nhiên, trước mắt hầu hết các hộ SXKD, nhất là các hộ có quy mô nhỏ, không đáp ứng được các yêu cầu này sẽ buộc phải giảm mức sản xuất, thậm chí là đóng cửa. Điều này gây ra tình trạng mất việc làm và ảnh hưởng đến sinh kế của nhiều nông hộ, trong đó người lao động không có tay nghề và làm theo thời vụ ở những nông hộ nghèo sẽ là người đầu tiên bị mất việc. Sau đó là đến nhóm hộ cung cấp gỗ nguyên liệu như hộ trồng rừng không hoặc chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hộ buôn bán gỗ nguyên liệu không rõ nguồn gốc bởi sản phẩm của họ không được coi là hợp pháp nên không bán được. Ngoài ra, tuân thủ quy định của VPA/FLEGT có thể gây ra tình trạng thiếu h t nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp ph c v sản xuất. Một trong những nút thắt của ngành sản xuất và chế biến gỗ Việt Nam là nguyên liệu, bởi Chính phủ không cho phép khai thác gỗ rừng tự nhiên nên phần lớn nguồn nguyên liệu gỗ hiện nay là nhập khẩu. Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước giảm dần thói quen sử dụng gỗ bất hợp pháp. Tuy nhiên, những rủi ro về nguồn cung gỗ vẫn đang hiện hữu khi vẫn còn một lượng không nhỏ nguồn gỗ có tính rủi ro cao (gỗ tự nhiên, gỗ quý, không chứng minh được tính hợp pháp) đã được nhập khẩu từ Châu Phi, Cambodia, Laos,(Bảng 2). Với thực trạng nhu cầu gỗ nguyên liệu ngày càng lớn, việc tìm kiếm các nguồn gỗ nguyên liệu hợp pháp sẽ rất khó khăn trong những năm tới. Hậu quả là nguồn gỗ nguyên liệu hợp pháp phục vụ cho sản xuất có thể bị thiếu hụt và giá gỗ nguyên liệu hợp pháp sẽ tăng cao gây ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của các làng nghề gỗ. 642 Bảng 2: Các thị trường nhập khẩu gỗ chính của Việt Nam Nguồn: Tô Xuân Phúc & cộng sự (2019), “Báo cáo Việt Nam xuất nhập khẩu gỗ 2018: Một năm nhìn ại và xu hướng 2019” 4. Giải pháp giúp các làng nghề gỗ thực hiện Hiệp định VPA/FLEGT Để tận dụng lợi ích và giảm thiểu các tác động tiêu cực của Hiệp định VPA/FLEGT, cần có sự nỗ lực chung của các cơ quan quản l nhà nước có liên quan, các doanh nghiệp, hộ gia đình chế biến gỗ trong làng nghề, thương lái mua bán gỗ, vận chuyển gỗ và cả những đối tượng cung cấp gỗ nguyên liệu (công ty lâm nghiệp, hộ trồng rừng) trong việc thực hiện các giải pháp, cụ thể: Thứ nhất, cần đẩy mạnh vấn đề truyền thông về Hiệp định VPA/FLEGT để nâng cao nhận thức về việc không sử d ng và không cung cấp gỗ bất hợp pháp. Thực tế, bên cạnh các hộ SXKD gỗ ở làng nghề thiếu hiểu biết về những quy định của Hiệp định VPA/FLEGT như đã phân tích ở phần trước, những hộ trồng rừng cũng trong tình trạng tương tự như vậy. Các đối tượng này chỉ biết trồng rừng và đến khi khai thác thì họ bán mà chưa biết thế nào là gỗ hợp pháp, bán gỗ ra sao mới đúng quy định, cần các loại giấy tờ gì khi bán gỗ. Do đó, trong thời gian tới các cơ quan nhà nước cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về Hiệp định cho các hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp, hộ SXKD gỗ, thương lái mua bán gỗ, vận chuyển gỗ, các hộ trồng rừng thông qua các phương tiện truyền thông, các chương trình phát thanh truyền hình, các trang thông tin điện tử, các lớp tập huấn, hội thảo nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết và nội dung cam kết cũng như các công việc cần triển khai để thực thi Hiệp định VPA/FLEGT. Đồng thời chú trọng soạn thảo các tài liệu tuyên truyền, phổ biến thông tin về Hiệp định VPA/FLEGT phù hợp với nhu cầu, trình độ và năng lực của các nhóm đối tượng có liên quan trong và ngoài nước về các cam kết cụ thể của Hiệp định, đảm bảo họ hiểu rõ, hiểu đúng các quy định, từ đó giúp việc thực thi Hiệp định được nhanh chóng, đầy đủ và hiệu quả. Thứ hai, cần chính thức hóa hộ SXKD ở các làng nghề. Để chính thức hóa các hộ SXKD, trước hết cần khuyến khích các hộ chưa đăng k tiến hành đăng k kinh doanh thông 643 qua việc hỗ trợ thông tin, tư vấn pháp lý miễn phí; đơn giản hóa thủ tục giấy tờ, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy đăng k ; có chính sách miễn, giảm thuế đối với hộ mới đăng k kinh doanh;Song song với đó cũng cần có cả các biện pháp cứng rắn để buộc các hộ đã đủ điều kiện phải đăng k kinh doanh phải tuân thủ pháp luật như tăng cường kiểm tra, giám sát và xử phạt nặng (thậm chí là chấm dứt hoạt động) đối với các hộ vi phạm nghiêm trọng. Bên cạnh những nỗ lực từ các các cơ quan quản lý, việc chính thức hóa các hộ SXKD cũng cần sự giúp đ từ các tổ chức phát triển, các hiệp hội ngành nghề và đặc biệt là nỗ lực và nhận thức của chính bản thân các hộ đó. Các tổ chức phát triển, các hiệp hội ngành nghề cần tư vấn cho các hộ SXKD về những tác động ban đầu và lợi ích lâu dài nhằm giúp họ nhận biết ra các lợi ích của việc chuyển đổi. Ví dụ, chính thức hóa giúp cho việc xây dựng địa vị pháp lý chính thức của các hộ, từ đó giúp hộ tiếp cận với các nguồn lực hỗ trợ của nhà nước và các nguồn lực khác phục vụ cho quá trình SXKD của hộ theo hướng bền vững. Thứ ba, cần có cơ chế hỗ trợ để giúp các hộ SXKD tuân thủ các quy định trong quá trình sản xuất và chế biến gỗ. Cụ thể: Đối với các quy định về sử dụng lao động, cần có các biện pháp tuyên truyền để nâng cao ý thức và hiểu biết của người lao động về quyền lợi sẽ được đảm bảo khi họ ký kết hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động cũng như những rủi ro xảy ra nếu họ không ký kết. Một khi nhận thức của người lao động được cải thiện họ sẽ chủ động đòi hỏi người sử dụng ký kết hợp đồng lao động. Đối với các quy định về môi trường, cần có các chế tài buộc các cơ sở sản xuất phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường. Khung pháp lý hiện hành mới chỉ quy định về yêu cầu bảo vệ môi trường đối với các cơ sở sản xuất đã có đăng k kinh doanh mà chưa quy định đối với cơ sở chưa đăng k kinh doanh hoặc sản xuất với quy mô hộ gia đình nhỏ l . Do vậy, cần hoàn thiện khung pháp l để cải thiện tình trạng môi trường tại các làng nghề. Đối với các quy định về phòng chống cháy nổ, an toàn lao động,cần có các biện pháp để quy hoạch và mở rộng không gian sản xuất. Hiện nay, hiện tượng thiếu không gian sản xuất đang diễn ra trầm trọng tại hầu hết các làng nghề trên khắp cả nước, dẫn đến tình trạng các hộ tận dụng không gian sinh hoạt hàng ngày của họ cho sản xuất. Điều này dẫn đến nguy cơ cháy nổ và mất an toàn lao động cao. Để khắc phục tồn tại đó cần có các chính sách quy hoạch, xây dựng các khu vực sản xuất và chế biến gỗ riêng biệt có quy mô lớn (khu công nghiệp hoặc vùng sản xuất tập trung) đồng thời có cơ chế chính sách khuyến khích và hỗ trợ tài chính để các cơ sở sản xuất ở các làng nghề chuyển vào khu sản xuất tập trung đó. Thứ tư, cần có các biện pháp kiểm soát tốt nguồn nguyên liệu gỗ để đảm bảo tính hợp pháp của yếu tố đầu vào. Những năm qua, Việt Nam đã sử dụng hai nguồn gỗ nguyên liệu từ nhập khẩu và trong nước. Đối với nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu, cần có các biện pháp để ngăn chặn việc nhập khẩu gỗ từ những quốc gia có rủi ro pháp lý cao. Cùng với đó là việc truy xuất rõ nguồn gốc, giám sát hành trình gỗ phải được thực hiện nghiêm túc và triệt để. Muốn vậy, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện các chính sách, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để kiểm 644 soát gỗ nhập khẩu hợp pháp, xây dựng hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp; tăng cường công tác quản lý gỗ, tăng cường việc theo dõi giám sát hành trình của gỗ. Đối với nguồn gỗ nguyên liệu trong nước, cần đẩy mạnh thực hiện việc cấp chứng chỉ rừng bền vững (FSC) và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng cho các đối tượng trồng rừng. Bản chất của FSC là quản lý rừng bền vững. Gỗ được khai thác từ các diện tích rừng được cấp chứng chỉ không những tuân thủ các quy định có liên quan đến tính pháp lý, mà còn tuân thủ các quy định có liên quan đến môi trường và xã hội. Vì vậy, gỗ đạt chứng chỉ FSC được chấp nhận và lưu thông rộng rãi tại các thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ,... Bên cạnh đó, yêu cầu về gỗ hợp pháp còn phục thuộc vào đất trồng rừng phải là đất hợp pháp (đất có sổ đỏ, có chứng nhận hoặc quyết định giao đất của chính quyền về thửa đất), do vậy, các ban, ngành chức năng và các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ hợp thức hóa đất trồng rừng cho các đối tượng trồng rừng, đồng thời cần cụ thể hóa chính sách giao đất, khoán rừng giúp các chủ rừng sớm có đất trồng hợp pháp. Ngoài những biện pháp từ phía các cơ quan quản l , các đối tượng tham gia trong chuỗi cung gỗ nguyên liệu (người trồng rừng, thương lái mua/bán, vận chuyển gỗ), các doanh nghiệp và hộ gia đình chế biến gỗ trong làng nghề phải thực hiện đầy đủ việc kê khai, lưu trữ hồ sơ, giấy tờ trong quá trình sản xuất, kinh doanh theo đúng quy định để đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc nhanh chóng và chính xác. Thứ năm, phát triển nguồn nguyên liệu từ rừng trồng trong nước để chủ động nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp. Hiện nay tiềm năng xuất khẩu gỗ của Việt Nam còn rất lớn do nhu cầu thị trường thế giới vẫn đang tăng. Để chủ động nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp đáp ứng yêu cầu của Hiệp định VPA/FLEGT, trong Đề án Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (được phê duyệt bởi Quyết định số 1288/QĐ-TTg ngày 01/10/2018) đã đặt ra mục tiêu: Phát triển nguồn nguyên liệu từ rừng trồng trong nước, đáp ứng tối thiểu 80% nhu cầu nguyên liệu cho chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu, tiến tới thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu; nâng thị phần thương mại đồ gỗ thế giới của Việt Nam từ 6% hiện tại lên khoảng 10% vào năm 2025. Muốn thực hiện được mục tiêu đó, điểm cốt lõi là phải phát triển rừng. Việc phát triển rừng đặt ra yêu cầu phải có quỹ đất và năng lực tài chính. Hiện nay, quỹ đất trồng rừng được giao cho các công ty lâm nghiệp và các hộ nhỏ l nên thiếu vùng chuyên canh tập trung, hiệu quả trồng rừng thấp và chất lượng gỗ không cao. Do vậy, nhà nước cần lập quy hoạch và có các biện pháp để tích tụ và tập trung đất rừng. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các hộ trồng rừng liên kết lại, các công ty lâm nghiệp cổ phần hóa để để nâng cao năng lực tài chính hoặc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển rừng. 5. Kết luận Việc đàm phán, k kết và thực thi Hiệp định VPA/FLEGT có ý nghĩa rất lớn, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Việt Nam và EU đối với việc thúc đẩy thực hiện Chương ―Thương mại và phát triển bền vững‖ của Hiệp định EVFTA, liên quan đến các quy định về quản lý rừng bền vững và thương mại lâm sản. Bên cạnh đó, thực thi Hiệp định mang lại lợi ích cho Việt Nam trên cả 3 lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường. Tuy vậy, việc tuân thủ Hiệp định 645 VPA/FLEGT là không hề dễ dàng, đặc biệt là đối với các hộ SXKD ở các làng nghề gỗ truyền thống. Do vậy, để hiện thực hóa các cam kết trong Hiệp định cần có sự nỗ lực chung của các cơ quan nhà nước, các hiệp hội ngành nghề và bản thân các hộ tại các làng nghề. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đề án Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (Quyết định số 1288/QĐ-TTg ngày 01/10/2018) 2. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) 3. Hiệp định VPA/FLEGT, van-hiep-dinh-vpaflegt-giua-viet-nam-va-eu-ban-dich-3404 4. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (2019), ―Hiệp định CPTPP và VPA/FLEGT: Cơ hội và thách thức đối với ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam‖, Báo cáo tại Diễn đàn ―Ngành công nghiệp chế biến, xuất khẩu gỗ, lâm sản năm 2018 – Thành công, bài học kinh nghiệm; giải pháp bứt phá năm 2019‖ ngày 22/02/2019. 5. Phạm Minh Quốc (2019), ―Quy định về FLEGT và hoạt động kinh doanh xuất khẩu gỗ trong thực thi Hiệp định EVFTA‖, Tạp chí Tài chính, K 1 tháng 7/2019, xuat-khau-go-trong-thuc-thi-hiep-dinh-evfta-311484.html 6. Phan Triều Giang & cộng sự (2015), Báo cáo ―Đánh giá Tác động của Hiệp định Đối tác Tự nguyện (VPA) tới Sinh kế tại Việt Nam‖, Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ Việt Nam về thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VNGO-FLEGT). 7. Quyết định 1624/QĐ-TTg ngày 14 tháng 11 năm 2019 về Kế hoạch triển khai Hiệp định đối tác giữa Việt Nam và EU. 8. Thùy Dung (2018), ―Hướng làng nghề tiến đến sử dụng gỗ hợp pháp‖, https://www.sgtiepthi.vn/huong-lang-nghe-tien-den-su-dung-go-hop-phap/ 9. Tô Xuân Phúc & cộng sự (2012), ―Làng nghề gỗ trong bối cảnh thực thi FLEGT và REDD+ tại Việt Nam‖ 10. Tô Xuân Phúc & cộng sự (2018), ―Làng nghề gỗ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập: Thực trạng và các lựa chọn về chính sách để phát triển bền vững‖, Báo cáo tại Hội thảo Quốc gia ngày 19 tháng 1 năm 2018. 11. Tô Xuân Phúc & cộng sự (2019), ―Báo cáo Việt Nam xuất nhập khẩu gỗ 2018: Một năm nhìn lại và xu hướng 2019‖, 12. Trung tâm WTO, VCCI (2014), ―Hỗ trợ Hiệp hội thực hiện nghiên cứu chiến lược phát triển ngành chế biến gỗ‖, Báo cáo Nghiên cứu, Dự án EU-MUTRAP. 13. Vũ Thu Hương & cộng sự (2014), ―Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cơ hội và thách thức đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam‖, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp, Số 3 – 2014, tr. 136 – 144.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_hiep_dinh_vpaflegt_den_cac_lang_nghe_go_o_viet.pdf