Tác động của hiệp định EVFTA tới đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc thu hút đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài dựa trên các cam kết của các hiệp định thế hệ mới ngày càng được
các quốc gia chú trọng. Việt Nam là một trong các quốc gia đã kí kết nhiều hiệp định hợp tác
giữa các quốc gia trong và ngoài khu vực. Một trong các hiệp định đó phải được kể đến đó là
hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các quốc gia thuộc khối liên minh châu Âu.
Hiệp định này đã mang lại những lợi ích đáng kể, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế Việt Nam. Trong bài viết, tác giả đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản về hiệp định
thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước thuộc khối liên minh châu Âu. Đồng thời, đưa
ra các kết quả về thu hút đầu tư trực tiếp từ các quốc gia đó tính đến đầu năm 2019 và những
giải pháp Việt Nam cần thực hiện nhằm thu hút nguồn đầu tư hiệu quả hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của hiệp định EVFTA tới đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ về công nghệ, khoa học, k thuật và các sản phẩm sáng tạo t Châu Âu. Đây là những l do hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tới Việt Nam. Thứ tư, EVFTA sẽ không ch tăng số lượng các công ty EU đầu tư vào Việt Nam mà còn mang lại đầu tư t các quốc gia khác ngoài châu Âu bởi vì EVFTA tạo ra một môi trường đầu tư mở, áp dụng các điều khoản có lợi hơn trong lĩnh vực đầu tư và thuế quan. Do đó, Các quốc gia không có FTA với EU có xu hướng đầu tư vào Việt Nam để hưởng lợi t các th a thuận này. Thứ năm, vì châu Âu là một thị trường rộng lớn và hấp dẫn về các quy định thương mại (quy t c xuất xứ và quy t c k thuật). Với nguyên t c tiếp cận thị trường trong EVFTA sẽ khiến cho tất cả các doanh nghiệp sản xuất có sản xuất tại Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước dễ dàng tiếp cận thị trường này. Thứ sáu, vì những rào cản trong hàng rào thuế quan được xóa b trong EVFTA, nên các doanh nghiệp tại Việt Nam nhập khẩu công nghệ và nguyên liệu chất lượng cao t EU với chi ph thấp hơn đáng kể. Điều này góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và giảm chi ph cho các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam. Đây là động lực để các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam nhằm hưởng ưu đãi này t châu Âu. Thứ bảy, khi k EVFTA, Việt Nam c ng đặt ra mục tiêu rõ ràng là thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp chiến lược như là các ngành công nghiệp hỗ trợ. Với các cam kết kinh doanh hàng hóa và các quy định về quy t c xuất xứ và tiêu chuẩn k thuật, EVFTA sẽ khuyến kh ch các nhà đầu tư EU đầu tư mạnh vào thị trường Việt Nam (không ch hợp đồng phụ sản xuất mà cả các ngành công nghiệp hỗ trợ) để hưởng mức thuế suất ưu đãi FTA. Thứ tám, EVFTA mở ra thị trường cho các dịch vụ chất lượng t Châu Âu, như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông và hậu cần. Kết hợp với cạnh tranh mở và lao động chi ph thấp, nó sẽ làm cho các dịch vụ phát triển rộng rãi và cung cấp giá thấp. Đây được coi là một động lực cho sản xuất, tạo ra chuỗi cung ứng vốn và sản phẩm. Các dịch vụ hỗ trợ sản xuất được cải thiện c ng sẽ là một lợi thế để thu hút vốn FDI t các quốc gia không thuộc EVFTA (Nguyễn Thị Minh Phương, 2019). 5. Những thách thức đối với Việt Nam trong thu hút FDI khi EVFTA có hiệu lực 5.1. Năng lực cạnh tranh ở mức độ thấp Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2014, ch số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam xếp thứ 68 trên 144 quốc gia, mức độ nhạy bén trong kinh doanh xếp thứ 106, mức độ sẵn sang về mặt công nghệ xếp thứ 99, phát triển thị trường tài ch nh xếp thứ 90, xếp hạng giáo dục là 96 và đặc biệt là các thể chế vẫn xếp thứ 92. Những điều này gây ra nhiều bất lợi cho Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là t các đối tác thân thiết như EU. 57 5.2. Môi trường kinh doanh kém hấp dẫn Theo Báo cáo về môi trường kinh doanh năm 2015 của Ngân hàng Thế giới, môi trường kinh doanh Việt Nam được xếp hạng thứ 78 trong số 189 nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều ch số vẫn còn rất thấp, chẳng hạn như thủ tục nộp thuế ( xếp thứ 173, với 32 lần thanh toán mỗi năm hoặc 872 giờ mỗi năm); truy cập điện (xếp hạng thứ 135, thực hiện 6 thủ tục và 115 ngày để được cung cấp điện); thủ tục mở công ty (xếp thứ 125, với 10 thủ tục khác nhau kéo dài trong 34 ngày); bảo vệ nhà đầu tư thiểu số (xếp thứ 117); giải quyết mất khả năng thanh toán ( xếp thứ 104). Ở một số lĩnh vực, ch nh quyền địa phương không nhận thức được sự cấp bách để cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh và khả năng cạnh tranh. So với môi trường kinh doanh của các quốc gia trong khu vực, như Singapore (thứ 1), Malaysia, Indonesia (thứ 18) và Thái Lan (thứ 26), môi trường kinh doanh Việt Nam vẫn chưa thực sự hấp dẫn. 5.3. Trình độ lao động và quản lý thấp Do xuất phát điểm thấp c ng với cơ cấu kinh tế dựa vào nông nghiệp, tỷ lệ tham gia vào thị trường lao động vẫn còn thấp khoảng 30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn không tương xứng với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng 45% công nhân trong ngành nông nghiệp không được đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một trong những yếu tố then chốt cản trở sự phát triển của Việt Nam. Ngân hàng Thế giới (WB) tuyên bố rằng Việt Nam đang thiếu lao động k thuật có trình độ và tay nghề cao. Nếu thang đo chất lượng lao động được đặt ở mức 10, thì chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam là 3,79, xếp thứ 11 trong số 12 quốc gia châu Á trong bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, trong khi Hàn Quốc đạt 6,91; Ấn Độ đạt 5,76; Malaysia và Indonesia đứng ở mức 5,59. Do đó, năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn gần 15 lần so với Singapore, thấp hơn 11 lần so với Nhật Bản và thấp hơn 10 lần so với Hàn Quốc). 5.4. Hệ thống thông tin thị trường lao động còn nhiều hạn chế Hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam vẫn còn yếu và nhiều hạn chế bởi ranh giới giữa các khu vực. Khả năng thu thập và cung cấp thông tin thấp hơn so với nhu cầu của các đối tác trong thị trường lao động, đặc biệt là người s dụng lao động và người lao động. Ngoài ra, các mô hình dự báo thị trường đáng tin cậy và nhất quán, nhân viên và chuyên gia làm việc trong các số liệu thống kê, phân t ch và dự báo ở Việt nam đang còn thiếu hụt nghiêm trọng. 5.5. Những bất cập khi thu hút đầu tư vào một số lĩnh vực chủ chốt 5.5.1. Ngành nông nghiệp Mặc d nông nghiệp là ngành m i nhọn của Việt Nam, nhưng vốn đầu tư vào nông nghiệp rất hạn chế. Điều này là do bản chất bên trong của ngành nông nghiệp và những hạn chế trong ch nh sách của Việt Nam về lĩnh vực này. Điều mà nhiều nhà đầu tư lo ngại khi đầu tư vào nông nghiệp thì lợi nhuận sẽ rất thấp vì ngành công nghiệp chế biến chưa phát triển và thời gian hoàn vốn kéo dài. Ngoài ra, rủi ro thiên tai, l lụt, hạn hán và rủi ro thị trường và dịch vụ bảo hiểm kém phát triển c ng là những vấn đề cản trở đầu tư vào nông nghiệp. 58 5.5.2 Ngành công nghiệp phụ trợ Hiện tại số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ còn t, chủ yếu là các doanh nghiệp v a và nh . Do không đủ nguồn lực về công nghệ và vốn, hầu hết các sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu k thuật của người tiêu d ng. Hơn nữa, tỷ lệ tiếp cận của các địa phương trong ngành công nghiệp của Việt Nam rất thấp. Một số ngành m i nhọn của Việt Nam, như dệt may, giày dép và điện t phải nhập nguyên liệu t nước ngoài. Do đó, các doanh nghiệp luôn phải phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Điều đó khiến các doanh nghiệp FDI vẫn thận trọng khi đầu tư vào Việt Nam. 6. Các giải pháp nhằm thu hút FDI hiệu quả sau khi hiệp định EVFTA có hiệu lực T những thách thức đối với thị trường đầu tư tại Việt Nam đã được đề cập ở mục 5, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút hiệu quả nguồn vốn t EU c ng như các quốc gia khác dựa trên những nguyên t c, cam kết trong Hiệp định EVFTA. 6.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện môi trường kinh doanh Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2014, ch số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam xếp thứ 68 trên 144 quốc gia, mức độ nhạy bén trong kinh doanh xếp thứ 106, mức độ sẵn sang về mặt công nghệ xếp thứ 99, phát triển thị trường tài ch nh xếp thứ 90, xếp hạng giáo dục là 96 và đặc biệt là các thể chế vẫn xếp thứ 92. Những điều này gây ra nhiều bất lợi cho Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là t các đối tác thân thiết như EU. Về mặt thể chế, Việt Nam cần tiếp tục cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có phương pháp khoa học trong hoạch định, xây dựng và thực thi ch nh sách. Bên cạnh đó, cần có bộ phận theo dõi, đánh giá sự ph hợp, chất lượng của ch nh sách, c ng như t nh hiệu lực, hiệu quả của khâu thực thi ch nh sách. Đồng thời, cần chú trọng đến t nh minh bạch trong khâu giải trình c ng như việc áp dụng các chuẩn mực quản trị doanh nghiệp nhằm tiệm cận các nguyên t c của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Cấn Văn Lực, 2019). Về cơ sở hạ tầng, Nhà nước cần có chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ. Đặc biệt ở các địa bàn kém thuận lợi nhưng có tiềm năng thu hút đầu tư, các địa phương cần quy hoạch, nâng cấp hệ thống giao thông, điện nước, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin để đáp ứng được các tiêu chuẩn đầu tư c ng như liên kết v ng. 6.2. Nâng cao chất lượng lao động và trình độ quản lý Thứ nhất, chú trọng đến phát triển thể chất cho đội ng lao động thông qua các ch nh sách chăm sóc y tế, rèn luyện sức kh e. Thứ hai, nâng cao trình độ học vấn và k năng thực hành nghề cho đội ng cho đội ng lao động thông qua các chương trình cải cách giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học theo hướng khuyến kh ch và k ch th ch t nh sáng tạo để phát huy tối đa năng lực của mỗi cá nhân và tập thể. Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các trường đại học, nhất là các trường đại học định hướng nghiên cứu. Các cơ sở đào tạo chủ động tiếp cận thị trường nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng với nhu cầu về 59 lao động cho xã hội; tăng cường kết nối đào tạo, nghiên cứu khoa học và hỗ trợ khởi nghiệp; thiết kế các chương trình, dự án phối hợp với các doanh nghiệp nhằm nâng cao t nh thực tiễn cho người học. Thứ năm, đổi mới cách thức tuyển dụng, s dụng, đánh giá và trả công lao động nhằm thu hút và giữ chân người lao động có năng lực. Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, trọng dụng nhân tài, nhằm phát huy tối đa của người lao động để tạo ra những sản phẩm chất lượng. 6.3. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động Cần xây dựng mạng lưới cung cấp thông tin, cơ chế chính sách và các công cụ thu thập x lí cho Hệ thống thông tin thị trường lao động (TTLĐ). Đồng thời, hoàn thiện và chuẩn hoá bộ ch tiêu thông tin TTLĐ, hệ thống sổ sách, biểu mẫu, hệ thống báo cáo theo bộ ch tiêu TTLĐ của Tổ chức lao động thế giới. Hình thành hệ thống thu thập, x l và cung cấp thông tin cơ bản về TTLĐ các cấp. Nâng cao trình độ cho cán bộ các cấp về các k năng quản l , điều tra, thu thập và ứng dụng công nghệ thông tin. Phổ biến rộng rãi thông tin TTLĐ trên các phương tiện truyền thông để nhà tuyển dụng và người lao động có thể tiếp cận dễ dàng (Nguyễn Thị Hải Vân, 2017). 6.4. Tháo gỡ rào cản khi đầu tư vào một số ngành chủ chốt Đối với ngành nông nghiệp, Chính phủ cần xây dựng mới ch nh sách thu hút đầu tư FDI đặc biệt trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất đầu vào, dịch vụ hậu cần, chế biến nông sản, quản lý chất lượng, phát triển thị trường,.. g n với nhu cầu thị trường. Nghiên cứu ban hành các cơ chế ch nh sách giúp đơn giản hóa các thủ tục trong việc vay vốn ngân hàng, khuyến khích ngân hàng cung cấp tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp kinh do- anh có vùng nguyên liệu được tổ chức và có hợp đồng nông sản với nông dân (Ngô Luyện, 2019). Bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ áp dụng vào lĩnh vực này. Ngoài ra, việc phát triển thị trường c ng như các dịch vụ hỗ trợ hoạt động nông nghiệp c ng cần được chú trọng. Đối với ngành công nghiệp phụ trợ (CNPT), cần khuyến khích hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất các sản phẩm phụ trợ, xây dựng các khu công nghiệp và khu chế xuất một cách tập trung. Có chính sách khuyến kh ch đầu tư, chuyển giao công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ tìm kiếm, điều tiết thị trường, tạo điều kiện về vay vốn, thuê mặt bằng, nhà xưởng, ưu đãi về thuế đối với các công ty, tập đoàn nước ngoài, c ng như các do- anh nghiệp nội địa hoạt động trong lĩnh vực CNPT. Đồng thời, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đo lường chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn cơ sở làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm phụ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế (Lê Xuân Dương, 2019). Kết luận Nhìn chung, hiệp định EVFTA đã khiến FDI t EU vào Việt Nam có sự tăng trưởng đáng kể trong những năm qua, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam thông qua cung cấp nguồn vốn cho đầu tư phát triển; thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại; 60 giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng t ch cực; thúc đẩy doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực quản trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, các nhà đầu tư châu Âu có ưu thế về công nghệ, góp phần t ch cực tạo ra một số ngành, nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao. Tuy nhiên, FDI t EU vào Việt Nam còn chưa ổn định và chưa tương xứng với tiềm năng về vốn, công nghệ và k thuật của các nhà đầu tư EU. Số lượng dự án FDI có quy mô lớn trong các lĩnh vực là lợi thế của các nước EU, đồng thời là lĩnh vực mà Việt Nam quan tâm thu hút, như các dự án công nghệ cao, công nghệ nguồn, công nghệ xanh, năng lượng tái tạo, nông nghiệp công nghệ cao, tài ch nh ngân hàng,... vẫn còn t. Nhiều dự án đầu tư của EU vẫn tập trung tận dụng nguồn lao động giá rẻ để thực hiện các công đoạn l p ráp, chế biến sản phẩm bán trong nước và xuất khẩu. Đồng thời, FDI tập trung ở các thành phố lớn và có hình thức 100% vốn nước ngoài nên t nh liên kết và tác động lan t a t FDI còn hạn chế. Để khai thác tối ưu những điểm mạnh mà hiệp định EVFTA mang lại, Việt Nam cần kh c phục các hạn chế, các rào cản trong môi trường kinh doanh, trong hành lang pháp l , các thể chế, ch nh sách nhằm thu hút nhiều FDI không ch ở các nước thuộc khối EU mà cả các nước khác trên toàn thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả (2019). Việt Nam cần làm gì để tiếp tục cải thiện năng lực cạnh tranh trong các năm tới? Truy xuất t nam-can-lam-gi-de-tiep-tuc-cai-thien-nang-luc-canh-tranh-trong-cac-nam-toi314182 .html 2. TS. Đinh Trọng Th ng &Ts. Trần Tiến D ng (2019). Thực trạng chính sách ưu đãi thu hút FDI vào Việt Nam hiện nay. Truy xuất t trao-doi/thuc-trang-chinh-sach-uu-dai-thu-hut-fdi-vao-viet-nam-hien-nay-308895.html. 3. TS. Lê Xuân Dương (2019). Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn 1988-2018 và một số giải pháp. Truy xuất t doi/dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-vao-viet-nam-giai-doan-19882018-va-mot-so-giai-phap- 310154.html 4. Nguyễn Thị Minh Phương (2019). Thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài từ Liên minh châu Âu vào Việt Nam: Thực trạng và triển vọng. Truy xuất t hut-au-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-tu-lien-minh-chau-au-vao-viet-nam-thuc-trang-va-trien-vong#. 5. PhD. Nguyen Quoc Toan (2016). Foreign direct investment in Viet Nam under the impact of EVFTA . Truy cập t Economy/2016/643/Foreign- direct-investment-in-Viet-Nam-under-the-impact-of-EVFTA.aspx 6. TS. Nguyễn Thị Hải Vân (2017). Hệ thống thông tin thị trường lao động Việt Nam. Truy xuất t 7. Ngô Luyện (2019). Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam. Truy xuất t thu-hut-von-dau-tu-vao-nong-nghiep-viet-nam-674.html
File đính kèm:
- tac_dong_cua_hiep_dinh_evfta_toi_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai.pdf