Tác động của hiệp định EVFTA đến xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam sang thị trường EU
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác động về mặt định lượng của Hiệp định thương mại
tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đến tăng trưởng xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam
sang thị trường EU. Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng thông qua mô hình
SMART với dữ liệu về kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ (mã HS 6 chữ số) và kịch
bản thuế quan cắt giảm về 0% khi EVFTA có hiệu lực. Kết quả phân tích cho thấy có sự gia tăng
nhẹ của xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ Việt Nam sang thị trường EU khi EVFTA có hiệu lực.
Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gỗ và các sản phẩm
từ gỗ của Việt Nam sang EU trong thời gian tới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của hiệp định EVFTA đến xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam sang thị trường EU
Huy, 2020). Nhóm hàng HS 4411 - Ván sợi bằng gỗ hoặc bằng các loại vật liệu có chất gỗ khác, đã hoặc chưa ghép lại bằng keo hoặc bằng các chất kết dính hữu cơ khác có kim ngạch xuất khẩu sang EU-28 khá nhỏ đạt 102,06 nghìn USD và tác động tạo lập thương mại ở nhóm này đạt được 5,207 nghìn USD. Ván sợi năm 2019 xuất khẩu sang các thị trường trên 154 ngàn m3 sản phẩm với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt khoảng 46 triệu USD và có xu hướng giảm qua các năm. Các quốc gia nhập khẩu nhiều ván sợi của Việt Nam là Ấn Độ, Hoa Kỳ, Ả Rập Xê Út, Hàn Quốc và Campuchia. Nếu như ván dăm chủ yếu có nguồn cung ứng từ trong nước thì ván sợi được nhập về Việt Nam gia tăng rất nhiều về lượng lên đến 690 ngàn m3 với giá trị 185,5 triệu USD năm 2019. Trong đó Thái Lan là quốc gia cung cấp ván sợi lớn nhất Việt Nam hằng năm trung bình không dưới 300 ngàn m3 tương đương khoảng 50 - 80 triệu USD. Còn lại là các nhà cung ứng đến từ Trung Quốc, Malaysia, New Zealand và Indonesia. Thị trường EU chiếm một thị phần khá nhỏ về ván sợi và Tây Ban Nha tiêu thụ 29,630 nghìn USD chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất sang khối này. Nhóm hàng chiếm tác động tạo lập thương mại lớn nhất là mã HS 4412 - Gỗ dán, tấm gỗ dán veneer và các loại gỗ ghép tương tự với 509,257 nghìn USD và kim ngạch xuất khẩu năm 2019 đạt gần 5 triệu USD thể hiện qua bảng 2. Gỗ dán, gỗ ghép liên tục là nhóm mặt hàng xuất khẩu quan trọng của ngành gỗ Việt với tổng kim ngạch cả nước năm 2019 đạt 712 triệu USD. Theo tính toán của Viforest (2020), sản lượng lẫn trị giá năm 2019 gia tăng tương ứng 8% và 7% so với năm 2018. Trong đó, Hoa Kì vượt qua Hàn Quốc trở thành quốc gia tiêu thụ gỗ dán, gỗ ghép lớn nhất Việt Nam. Theo sau Hàn Quốc là Malaysia, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc và Lào. Như vậy, xuất khẩu sang EU các mặt hàng này của Việt Nam khá khiêm tốn so với con số tổng kim ngạch. Dù vậy, dư địa để xuất khẩu sang EU vẫn còn lớn với tác động tạo lập thương mại gần 510 nghìn USD. Việt Nam nhập khẩu nguồn gỗ dán, gỗ ghép hằng năm không dưới 500 nghìn m3 tương đương 200 triệu USD. Trung Quốc đứng đầu trong danh sách cung ứng gỗ dán chiếm hơn 91,4%, theo sau là Indonesia, Malaysia, Liên Bang Nga và Campuchia. Xét về tác động tạo lập thương mại, các mặt hàng gỗ thuộc mã HS 44 (4410, 4411, 4412) áp mức thuế suất thấp từ 3,5% đến 6% trước khi EVFTA có hiệu lực. Do đó, trong vòng 7 năm bắt đầu từ EVFTA có hiệu lực thì các mức thuế này trở về 0% không tạo ra tác động bứt phá cho ngành gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam ở góc độ thuế quan. Tác động tạo lập thương mại chỉ là một phần trong tổng tác động thương mại. Tiếp đến ta sẽ xét về tác động chuyển hướng thương mại đối với mặt hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam cạnh tranh ra sao với các đối thủ trên thị trường EU. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 10 4.2. Tác động chuyển hướng thương mại Tổng tác động chuyển hướng thương mại sang hàng hóa Việt Nam hơn 380 nghìn USD. Trong đó, nhóm hàng 4412 (gỗ dán, gỗ ghép) chiếm tỉ trọng cao nhất hơn 98% tổng tác động chuyển hướng thương mại tương đương hơn 375 nghìn USD. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu của nhóm gỗ dán, gỗ ghép so với tổng lượng gỗ và các sản phẩm từ gỗ Việt xuất khẩu sang EU không cao. Như vậy, sau khi ký kết EVFTA, gỗ Việt Nam trở nên cạnh tranh tương đối nhỏ và áp lực cạnh tranh từ các đối thủ vẫn còn rất lớn như bảng 3 bên dưới: Bảng 3. 11 nước giảm xuất khẩu các mặt hàng mã HS 44 sang EU Reporter Partner Exports Before In 1000 USD Exports After In 1000 USD Export Change in Revenue in 1000 USD EU Trung Quốc 1.262.774,631 1.262.695,336 (79,295) EU Liên Bang Nga 790.665,644 790.588,312 (77,332) EU Indonesia 359.704,436 359.652,825 (51,611) EU Brazil 576.825,615 576.796,873 (28,742) EU Na Uy 223.964,184 223.936,737 (27,447) EU Bosnia và Herzegovina 167.024,542 167.004,732 (19,810) EU Malaysia 227.587,641 227.573,832 (13,809) EU Thụy Sĩ 256.313,783 256.302,627 (11,156) EU Gabon 175.476,267 175.466,032 (10,235) EU Chile 96.898,891 96.889,964 (8,927) EU Thái Lan 30.035,402 30.028,400 (7,002) Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả của mô hình SMART Mô phỏng từ mô hình SMART về góc độ nước khẩu cho thấy 11 đối thủ cạnh tranh cùng xuất khẩu gỗ nguyên liệu sang thị trường EU có thị phần giảm trong khi tổng tác động thương mại của Việt Nam gia tăng 895,019 nghìn USD (từ hai tác động chuyển hướng và tạo lập thương mại). Rõ ràng tác động chuyển hướng thương mại đã giúp cho hàng hóa gỗ Việt vươn lên chiếm thị phần ở các nước đối thủ lớn như Trung Quốc giảm 79,295 nghìn USD, Liên Bang Nga 77,332 nghìn USD, Indonesia 51,611 nghìn USD, Brazil 28,742 nghìn USD và 27,447 nghìn USD từ Na Uy. Trong các nước Việt Nam cạnh tranh thì có Liên Bang Nga đã ký kết với EU hiệp ước thành lập Liên minh kinh tế Á-Âu chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2015 theo khuôn khổ EU mở rộng mối quan hệ cho một Liên minh thuế quan vào năm 2010. Na Uy và Thụy Sĩ cùng EU kí kết Hiệp hội mậu dịch tự do EFTA (1960) phá bỏ các rào cản buôn bán. Bosnia và Herzegovina đã ký kết với EU Thỏa thuận ổn định và liên kết vào năm 2008. Chile với EU kí kết thỏa thuận liên kết bao gồm hiệp định thương mại tự do toàn diện vào năm 2002 và có hiệu lực tháng 2/2003. Brazil thuộc Khối thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur) đang thúc đẩy các cuộc đàm phán thương mại với EU. Tuy nhiên, tiến trình đàm phán với khối này trong 2 thập kỷ qua vẫn chưa đến hồi kết khi vấp phải sự phản đối của các nhà chăn nuôi ở châu Âu về thịt bò và triển vọng đàm phán khá mờ mịt. Các nước còn lại đang trong tiến trình đàm phán FTA. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 9(01) - 2021 11 Như vậy, có thể thấy trong các nước Đông Nam Á, Singapore là nước dẫn đầu việc đã kí kết FTA với EU có hiệu lực vào ngày 21/11/2019, theo sau là Việt Nam vào ngày 1/8/2020. Tuy nhiên, theo ý kiến của các chuyên gia thì Singapore và Việt Nam không thể xét là đối thủ cạnh tranh với nhau vì Singapore là một nước phát triển cao với cơ chế luật lệ mở rộng, chính sách tài chính dài hạn, không điều chỉnh theo chu kì hoặc phân phối thu nhập. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hàng gia công và sản phẩm thô. Khi sơ chế xong, Việt Nam hay xuất sang Singapore để tinh chế và do đó Singapore hưởng lợi cao hơn Việt Nam rất nhiều. Vì vậy, các đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam là các nước trong khu vực ASEAN như Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Nhìn chung, các mặt hàng tạo được tác động chuyển hướng ít (hơn 380 nghìn USD) có kim ngạch xuất khẩu khá thấp (chỉ hơn 5 triệu USD) nên chưa thể tạo được áp lực cạnh tranh lớn lên các đối thủ cùng xuất sản phẩm sang thị trường EU và chỉ có thể tạo điểm nhấn nhỏ về sự phân bổ lại thị trường chủ yếu là do Việt Nam nhận được ưu đãi thuế quan xuất sang EU. Trong khi đó, EU tiếp tục đàm phán FTA với các nước trong khu vực ASEAN (Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan), Châu Á như Trung Quốc, Mecosur (Khối thị trường chung Nam Mỹ). Điều đó có nghĩa khi các quốc gia này kí kết được FTA với EU thì các hàng rào thuế quan sẽ không còn cản trở các nước này xuất sang EU với lượng lớn hàng hóa và lấn át thị phần hàng gỗ xuất xứ Việt Nam. Do vậy, vấn đề đặt ra là trong thời gian này doanh nghiệp ngành gỗ Việt nên làm thế nào tận dụng tốt cơ hội và khai thác triệt để EVFTA nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nước nhà khi xuất khẩu sang EU. 5. Kết luận và hàm ý Bảng 4 cho biết tác động tạo lập thương mại lấn át tác động chuyển hướng thương mại khi chiếm khoảng 15% tổng tác động thương mại, có nghĩa là ngay khi EVFTA có hiệu lực thì thuế xuất được xóa bỏ về 0%, gia tăng xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam vào EU phần lớn đến từ việc giá hàng hóa của Việt Nam cạnh tranh hơn hàng từ nội địa EU. Bảng 4. Tác động của Hiệp định EVFTA đến xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam sang thị trường EU Tác động Giá trị (1000 USD) Tỷ lệ Tạo lập thương mại 514,584 57,49% Chuyển hướng thương mại 380,435 42,51% Tổng 895,019 100% Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả của mô hình SMART Bên cạnh đó, tác động chuyển hướng thương mại chiếm khoảng 42,51% tổng tác động tức là dưới tác động của EVFTA, hàng hóa Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn hàng hóa từ các nước đối thủ khác khi xuất khẩu các mặt hàng tương tự vào thị trường EU. Tuy nhiên lợi thế này cần được xem xét kĩ khi các đối thủ đang thúc đẩy quá trình đàm phán để ký kết các hiệp định thương mại tự do nhằm cắt giảm áp lực thuế quan cho hàng hóa xuất khẩu sang EU của họ. Hầu hết các mặt hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam xuất khẩu sang EU đã được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) áp dụng kể từ ngày 01/01/2014 trước khi có hiệp định EVFTA. Do đó, ngay khi EVFTA có hiệu lực sẽ không ảnh hưởng đến các mặt hàng thuộc nhóm này và Việt Nam được phép chuyển đổi từ GSP sang EVFTA trong vòng 7 năm. Vì vậy, Việt Nam không thể chỉ dựa vào ưu đãi thuế quan để tận dụng triệt để tác động tích cực của EVFTA mà còn phải lưu ý các vấn đề quy tắc xuất xứ, thương mại và phát triển bền vững. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 12 5.1. Hàm ý đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ Kết quả nghiên cứu cho thấy hàng gỗ Việt xuất khẩu sang thị trường EU chiếm hầu hết là các sản phẩm thuộc mã HS 94 và các sản phẩm này phần lớn đã được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) trước EVFTA. Do đó, các doanh nghiệp nên tập trung xuất khẩu đồ gỗ nội thất để gia tăng kim ngạch xuất khẩu, thị trường xuất khẩu mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Theo ý kiến của các chuyên gia, đã buôn bán với thị trường lớn thì bao giờ doanh nghiệp cũng phải chủ động về nguồn nguyên liệu. Nếu không quản được chuỗi cung ứng từ đầu nguồn kể cả câu chuyện về lúa gạo, thủy sản cho đến gỗ về quy tắc xuất xứ, dịch tễ động thực vật thì chuỗi đầu ra hoàn toàn sẽ bị ách tắc ngay chứ đừng nói gì đến FTA được hưởng thuế”. Vì vậy, các doanh nghiệp cẩn trọng trong việc lưu trữ tài liệu xác minh được nguồn gốc của gỗ. Các doanh nghiệp cần lưu ý xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ sang thị trường châu Âu đều phải có giấy phép FLEGT cho từng lô hàng và không gộp các giấy phép như làm một hoặc thay thế FLEGT. Chỉ có duy nhất những lô gỗ hoặc sản phẩm gỗ có giấy phép CITES không phải xin giấy phép FLEGT. EVFTA cho phép các doanh nghiệp Việt tiếp cận các công nghệ cao phục vụ công nghiệp chế biến gỗ nhằm nâng cao năng suất tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho ngành gỗ Việt giảm thiểu lãng phí nguyên liệu, tận dụng nguồn nhân lực và phát triển theo hướng phát triển bền vững. 5.2. Hàm ý đối với hiệp hội ngành nghề, cơ quan nhà nước Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò quan trọng của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST) trong gắn kết mạng lưới thu thập thông tin tương quan giữa doanh nghiệp và hiệp hội địa phương như Hội mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM (HAWA), FBA Bình Định, BIFA và DOWA. Viforest cần hướng dẫn các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ tập trung khai thác khe hở các thị trường, tức là trong tình hình Covid-19 thì thị trường nào, quốc gia nào khống chế được dịch thì tập trung khai thác thị trường đó. Như vậy, điều này cho thấy sự linh hoạt của doanh nghiệp và các hiệp hội thích ứng khi thời thế thay đổi. Thị trường châu Âu được biết đến là thị trường khó tính. Chính vì vậy, việc tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt theo quy định của EU là điều đương nhiên nếu các doanh nghiệp có mong muốn xuất khẩu sang thị trường này. Điều đó đặt ra vấn đề cho các cơ quan nhà nước phải tổ chức kiểm tra tốt các hàm lượng cho phép để xuất sang EU, giảm thiểu khả năng bị trả hàng về hay nặng hơn là bị phạt khiến cho hàng gỗ Việt mất lợi thế cạnh tranh. TÀI LIỆU THAM KHẢO Abdelmalki, L., Sandretto, S.M. & Jallab, S., 2007, The free trade agreement between the United States and Morocco: The importance of a gradual and assymetric agreement, Journal of Economic Integration 22(4), 852-887, viewed 1st November 2020, from Alfred Marshall, 1980, Principles of economics, page XXVI. Armington, Paul S, 1969, A Theory of Demand for Products Distinguished by Place of Production. TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 9(01) - 2021 13 Bộ Công Thương, 2019, Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt Nam. Cline, R., 1978, Benefits and Costs of Economic Integration in Central America, Economic Integration in Central America, 59-121. Jame Cassing và cộng sự, 2010, Báo cáo đánh giá tác động của các hiệp định thương mại tự do đối với kinh tế Việt Nam, MUTRAP, truy cập ngày 4/11/2020, Lang, R., 2006, A partial equilibrium analysis of the impact of the ECOWAS-EU, Economic Partnership Agreement, United Nations Economic Commission for Africa, viewed 06 July 2017, from Paul Baker, David Vanzetti và Phạm Thị Lan Hương, 2014, Đánh giá tác động dài hạn của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU. Lang, R., 2006, A partial equilibrium analysis of the impact of the ECOWAS-EU, Economic Partnership Agreement, United Nations Economic Commission for Africa, viewed 06 July 2017, from Marc Bacchetta và cộng sự, 2012, In A Practical Guide to Trade Policy Analysis, World Trade Organization. Michael G. Plummer, David Cheong, Shintaro Hamanaka, 2010, Methodology for Impact Assessment of Free Trade Agreements, Asian Development Bank (ADB), viewed 14th Nov 2020, from Milner, C., O. Morrissey, and A. McKay, 2005, Some Simple Analytics of the Trade and Welfare Effects of Economic Partnership Agreements, Journal of African Economies, vol. 14, issue 3, pages 327-358 Phạm Văn Phúc Tân, 2019, Tác động của Hiệp định EVFTA đến hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU. Sam Laird và Alexander Yeats, 1990, Quantitative Methods for Trade-Barrier Analysis, page 59. Trần Lê Huy và cộng sự (2020), Tác động của Hiệp định EVFTA tới các mặt hàng gỗ của Việt Nam xuất khẩu vào EU. Tô Xuân Phúc, Cao Thị Cẩm, Trần Lê Huy, 2020, Rủi ro trong gian lận thương mại các mặt hàng đồ gỗ Tô Xuân Phúc, Cao Thị Cẩm, Trần Lê Huy, 2020, Tại sao ngành dăm gỗ của Việt Nam phát triển? United Nations, & World Trade Organization (2012), Partial-equilibrium trade policy simulation, In A Practical Guide to Trade Policy Analysis, World Trade Organization, viewed 14th Nov 2020 Viner Jacob, 1937, Studies in the theory of international trade, Printed in the United States of America by Sentry Press, New York, N. Y. 10019 https://www.customs.gov.vn, truy cập ngày 14/11/2020, Tình hình xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tháng 12 năm 2019, <https://www.customs.gov.vn/Lists/ThongKeHaiQuan/ViewDetails.aspx?ID=1734&Cate gory=Ph%C3%A2n&Group>
File đính kèm:
- tac_dong_cua_hiep_dinh_evfta_den_xuat_khau_go_va_cac_san_pha.pdf