Tác động của hiệp định CPTPP đến thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng về phát triển kinh tế nhờ vào việc đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, tích
cực tham gia mạng ưới các hiệp định thương mại tự do đa tầng, đặc biệt là tham gia
nhiều các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có thể kể đến Hiệp định đối
tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Bên cạnh đó sự phát triển
mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ
hội và thách thức. Bài viết dưới đây phân tích tác động của hiệp định CPTPP đối với ĩnh
vực thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 cũng như đưa ra
một số kiến nghị.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của hiệp định CPTPP đến thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của hiệp định CPTPP đến thương mại điện tử của Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
thêm 5,3 – 7,6%. Các cam kết của CPTPP về TMĐT còn tạo ra khung pháp lý an toàn, ổn định, có thể dự đoán trước và làm tiền đề vững chắc cho cho các hoạt động mua sắm trực tuyến xuyên biên giới. Ngoài ra, các cam kết này cũng tạo cơ hội cải thiện các dịch vụ hạ tầng cho TMĐT, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ phương thức thương mại này. Có thể nói, CPTPP hầu như không tạo ra thách thức hay khó khăn nào cho TMĐT ở Việt Nam, các cam kết chỉ tạo ra khung pháp l rõ ràng để môi trường TMĐT được ổn định và thuận lợi hơn. Tuy nhiên, cuộc CMCN 4.0 đang đặt ra không ít yêu cầu điều chỉnh mới đối với phạm vi, độ sâu và cách thức cải cách trong nước, thúc đẩy cạnh tranh trên nền tảng công nghệ, chính sách đổi mới và sáng tạo, v.v..., do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần phải năng động đổi mới phương thức kinh doanh toàn diện, ứng dụng công nghệ tối ưu, nhất là trong thời điểm hiện tại đa số chủ thể tham gia kinh doanh đều là các cá nhân, hộ gia đình chưa hiểu rõ về luật thương mại. ii. Tham gia và nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị CPTPP có thể định hướng lại việc Việt Nam tham gia và nâng cấp vị trí trong các chuỗi giá trị, việc thực hiện các cam kết trong CPTPP về TMĐT cũng có nghĩa quan trọng đối với sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam vào thương mại toàn cầu. Thương mại thế giới quanh các sản phẩm hữu hình hiện không còn quan trọng như ngày trước. Do vậy, ưu tiên trong đàm phán tự do hóa thương mại thế giới đã dịch chuyển: từ mua bán hàng hóa vật chất chuyển sang mua bán dịch vụ xuyên biên giới. Các doanh nghiệp lớn nhất nước Mỹ đang chào bán các hàng hóa công nghệ, như với Facebook là công nghệ kết nối con người, Google là hàng loạt công nghệ nền tảng cho hoạt động của Internet, Microsoft là công nghệ phần mềm, Amazon là công nghệ lưu trữ đám mây... Trong phim ảnh thì có Netflix, trong âm nhạc trực tuyến có Apple Music... Loại hàng hóa này được cung cấp vô hình xuyên qua biên giới, nơi các rào cản về thuế còn chưa chín muồi, thậm chí nhiều nước chưa biết ứng xử như thế nào cho phù hợp. Chính ở đây, CMCN 4.0 với nền tảng số hóa đã và đang thay đổi diện mạo thương mại toàn cầu với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Theo đó, ưu tiên cho chính sách thương mại tự do nay đã khác trước. Sẽ không còn quan trọng chuyện cắt giảm thuế, thay vào đó là các hàng rào kỹ thuật mới, liên quan đến công nghệ số, đến chủ quyền số và thông tin người dùng. Bên cạnh đó, bản thân một số công nghệ mới trong CMCN 4.0 cũng đang thay đổi đáng kể hoạt động thương mại ở khu vực. Chẳng hạn, công nghệ blockchain đang được sử dụng trong không ít công đoạn của hoạt động thương mại ở khu vực. Công nghệ này giúp truy xuất các sản phẩm trong chuỗi giá trị toàn cầu (như trường hợp ứng dụng ở Singapore). Blockchain 631 giúp giảm chi phí logistics (như trường hợp của PSA International, Pacific International Lines Ltd, và IBM Singapore). Blockchain giúp tạo thuận lợi và bảo đảm an toàn thương mại ở các cơ quan hải quan. Blockchain giúp giảm khoảng cách về tài trợ vốn cho thương mại. iii. Cạnh tranh trên nền tảng công nghệ CMCN 4.0 cũng đang đặt ra không ít vấn đề mới đối với tạo lập và bảo vệ cạnh tranh trên thị trường. Đầu tiên phải kể đến việc các nền tảng công nghệ số đang làm gia tăng lợi ích của TMĐT so với thương mại truyền thống. Nghiên cứu của Nielsen Việt Nam cho thấy, hiện nay trung bình một người Việt Nam sở hữu 1,3 chiếc điện thoại, trong đó 70% là smartphone. Hạ tầng công nghệ vững vàng là nền tảng để thương mại điện tử Việt Nam tạo ra doanh số 4 tỷ USD trong năm qua. Đinh Thu Hằng và cộng sự (2018) đã tóm lược một số lợi ích của TMĐT từ thực tiễn nhiều nước trên thế giới: Thứ nhất, TMĐT giúp doanh nghiệp có nhiều thông tin về thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, qua đó nhận thức và khai thác được nhiều cơ hội từ thị trường. Khảo sát của Trung tâm thương mại thế giới (ITC) năm 2017 cho thấy TMĐT xuyên biên giới rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa: hơn 80% doanh nghiệp chỉ có hoạt động TMĐT xuyên biên giới là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy, với các doanh nghiệp ít kinh nghiệm đối với xuất nhập khẩu, TMĐT chính là cánh cửa mở ra những cơ hội kinh tế mới. Thứ hai, TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất, bán hàng, tiếp thị và giao dịch. Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian là đáng kể nhất, vì việc nhanh chóng làm cho thông tin hàng hoá tiếp cận người tiêu thụ (mà không phải qua trung gian) có nghĩa sống còn đối với buôn bán và cạnh tranh buôn bán. Ngoài ra, việc giao dịch nhanh chóng sớm nắm bắt được nhu cầu của thị trường, điều này đặc biệt có nghĩa đối với việc kinh doanh hàng rau quả, hàng tươi sống. Đến năm 2020, dự kiến tại Việt Nam có khoảng 30% dân số tham gia mua sắm online, đạt 350 USD/người. Theo đó, thương mại điện tử trên nền tảng di động và thương mại điện tử định vị sẽ tiếp tục là xu thế chủ đạo trên thế giới, chiếm khoảng 25% tổng mức bán l toàn cầu. Thứ ba, TMĐT giúp tăng chất lượng dịch vụ khách hàng. Chất lượng ấy được thể hiện ở mức độ sẵn có, mức độ kịp thời của thông tin, tư vấn cho khách hàng, các dịch vụ chăm sóc khách hàng sau bán hàng. Các hỗ trợ cho khách hàng về sử dụng sản phẩm, dịch vụ có thể được tiến hành trực tuyến trên mạng giúp giảm thiểu thời gian và chi phí của cả doanh nghiệp và khách hàng. Thứ tư, TMĐT giúp tăng doanh thu. Do có khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn và hầu như không có biên giới, các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh và tận dụng được cơ hội sẽ có nhiều điều kiện để tăng doanh thu. Chẳng hạn, doanh thu bán l hàng hóa của Trung Quốc tăng trung bình khoảng 10%/năm, nhưng doanh thu bán l trực tuyến có mức tăng trưởng hàng năm cao hơn tới 3 lần (Chris 2017). Thứ năm, TMĐT giúp nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Môi trường TMĐT giúp các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa thu hẹp đáng kể chênh lệch về năng lực cạnh tranh (vốn, thị trường, nhân lực, quan hệ, mạng lưới phân phối, v.v.) với các doanh nghiệp 632 lớn. Khảo sát của ITC năm 2017 cũng cho thấy đánh giá khá tích cực về cơ hội của doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp của nữ doanh nhân từ môi trường TMĐT. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra - bên cạnh các ưu điểm so với loại hình thương mại truyền thống - TMĐT cũng bộc lộ những hạn chế nhất định: Một là, sự phát triển của TMĐT có thể tạo nên xung đột kênh phân phối hoặc tác động tới các kênh phân phối truyền thống (ví dụ loại bỏ các nhà phân phối trung gian và bán l ). Cụ thể, sử dụng hệ thống phân phối nhiều kênh thường rất phức tạp và khó kiểm soát đồng thời có thể gây ra xung đột giữa các kênh trong cùng một hệ thống vì đều cạnh tranh để bán hàng. Chẳng hạn, khi các siêu thị điện máy tổ chức nhân viên bán hàng trực tiếp qua mạng và qua điện thoại và có chiết khấu, các nhân viên kinh doanh ở chi nhánh siêu thị truyền thống (trong cùng hệ thống) có thể nhìn nhận là cạnh tranh không bình đẳng. Ở một chừng mực khác, các cửa hàng, siêu thị truyền thống luôn có hàng trưng bày để khách hàng dùng thử hoặc trải nghiệm thực tế, nhưng sau đó thì khách hàng có thể lại chọn mua cùng sản phẩm qua TMĐT để có giá r hơn. Như vậy, kênh truyền thống thực ra đang tài trợ một phần chi phí bán hàng cho TMĐT, nhưng điều này thường không được tính đến khi xem xét cạnh tranh giữa các kênh bán hàng. Hai là, TMĐT có thể gây nên những bất lợi bắt nguồn từ tính chất mới lạ và tốc độ phát triển nhanh của công nghệ. Một mặt, các công ty TMĐT phải làm quen, điều chỉnh từ phần mềm và cơ sở dữ liệu hiện hành chuyên cho thương mại truyền thống sang hệ thống mới phù hợp hơn với TMĐT. Mặt khác, quá trình làm quen thích ứng với TMĐT đòi hỏi phải đào tạo các nhân viên, nhưng sau đó việc giữ chân các nhân viên này có thể không đơn giản. Chi phí đổi mới công nghệ TMĐT – vốn có sự biến động - cũng có thể vượt quá khả năng chi trả của không ít doanh nghiệp. Ứng xử với các sự cố, rủi ro trong TMĐT cũng là vấn đề không dễ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là liên quan đến tình trạng đánh cắp thông tin khách hàng, chất lượng hàng thấp hơn so với quảng cáo do nguyên nhân từ bên thứ ba, v.v. Ba là, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với những trở ngại về văn hoá và luật pháp trong TMĐT. Một bộ phận người tiêu dùng còn e ngại việc gửi số th tín dụng trên Internet, có một số người tiêu dùng khác thường sử dụng thanh toán qua ví điện tử và làm chi phí thanh toán có thể cao hơn cho doanh nghiệp. Quan trọng hơn, nếu chính sách, văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến TMĐT có sự thận trọng quá mức, không theo kịp những tiến bộ mới trong CNTT hoặc các cam kết mới về TMĐT trong các FTA thì doanh nghiệp khó yên tâm đầu tư vào TMĐT. 4. Một số iến nghị CMCN 4.0 vẫn diễn ra nhanh, không phụ thuộc vào chí chủ quan của Việt Nam về tiến độ, phạm vi nỗ lực bắt kịp cuộc cách mạng này. Trong chừng mực ấy, các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn có nhiều cơ hội để tận dụng những công nghệ mới. Mức độ tận dụng công nghệ mới và cơ hội kinh tế kèm theo không chỉ phụ thuộc vào khung pháp l , hạ tầng và chính sách đã có, mà chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ cách nhìn nhận, cách tiếp cận và sự tích cực thực chất của Việt Nam đối với CMCN 4.0. Chờ đợi đến khi thấy rõ và đầy đủ cơ hội và thách thức 633 từ CMCN 4.0 không phải là cách tiếp cận hiệu quả nếu Việt Nam muốn nhanh chóng bắt kịp và vượt lên các nước khác. Tương tự, đặt yêu cầu tận dụng CMCN 4.0 chỉ sau khi hoàn thiện khung pháp l và hạ tầng thanh toán cũng không phải là tối ưu, bởi kinh nghiệm của một số nền kinh tế cho thấy sự k m phát triển của th tín dụng có thể lại là cơ hội cho các phương thức thanh toán mới, thân thiện hơn với TMĐT. Cuối cùng, lo ngại về các vấn đề thuộc lợi ích quốc gia, lợi ích chiến lược là cần thiết, song cần tránh đứng xa những thông lệ, cách tiếp cận quốc tế tốt nhất đối với CMCN 4.0. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam cũng cần tư duy thấu đáo, kịp thời hơn về cách thức thực hiện hiệu quả CPTPP. Một mặt, Việt Nam cần tâm thế chủ động hơn để thực hiện CPTPP, thay vì chỉ thực hiện các cam kết một cách thụ động. Mặt khác, Việt Nam cần tận dụng ―áp lực tích cực‖ từ CPTPP để nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế nói chung và các quy định về TMĐT nói riêng. a. iến nghị chung Thứ nhất, Chính phủ cần tiếp tục tăng cường phổ biến thông tin về CPTPP - đặc biệt trên các lĩnh vực mới như cạnh tranh, TMĐT, sở hữ trí tuệ và doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm tạo điều kiện để các bên có lợi ích liên quan tham gia sâu hơn vào quá trình này. Bên cạnh đó, Việt Nam khuyến khích sự tham gia rộng rãi, tích cực và chủ động hơn của khu vực tư nhân, các hiệp hội ngành, các tổ chức chính trị xã hội và người dân trong việc thực thi các cam kết. Thứ hai, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình cải cách môi trường kinh doanh để tạo ra môi trường thuận lợi. Chuỗi Nghị quyết 19 được ban hành từ năm 2014 (và sau đó được làm mới trong các năm 2015-2016) cần tiếp tục được thực hiện hiệu quả để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là ở những ngành, lĩnh vực gắn nhiều với thành tựu của CMCN 4.0. Thứ ba, Việt Nam cần tăng cường năng lực cạnh tranh hơn nữa để tận dụng được các cơ hội từ CPTPP. Nâng cao năng lực cạnh tranh phải tiến hành đồng thời ở các cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Thứ tư, củng cố năng lực sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là hướng đi phù hợp về chính sách nhằm đảm bảo Việt Nam sẽ thu được lợi ích từ tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu được củng cố từ quan hệ hợp tác với các đối tác trong khuôn khổ CPTPP. Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính trong các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh, chủ động tận dụng các cơ hội mà CPTPP mang lại. b. iến nghị cụ thể Về chính sách ngành: tập trung hoàn thiện khung chính sách ngành, đặc biệt là chính sách công nghiệp, với các ngành trọng điểm, có lợi thế so sánh tĩnh hoặc lợi thế so sánh động gắn với việc thực hiện CPTPP, có đánh giá về triển vọng và tác động của CMCN 4.0 đối với các ngành, lĩnh vực chủ chốt. Tận dụng không gian chính sách cho ph p để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước và định hướng đầu tư vào các lĩnh vực then chốt được lựa chọn. Khuyến 634 khích tận dụng các cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng và chất lượng hàng hóa.Thúc đẩy liên kết hiệu quả với các doanh nghiệp FDI, qua đó tạo đà tham gia sâu vào liên kết khu vực. Về chính sách thương mại: Đổi mới cơ chế, chính sách quản l và điều hành xuất nhập khẩu, dựa nhiều hơn vào các công nghệ tiên tiến (blockchain, chính phủ điện tử, v.v...). Tập trung xây dựng các thương hiệu hàng hoá mạnh của quốc gia. Tổ chức lại hệ thống phân phối hàng hoá trong nước và tiếp cận hệ thống phân phối bán l ở thị trường nước ngoài, tăng cường phát triển TMĐT. Đẩy mạnh hoạt động truyền thông và xúc tiến thương mại ở ngoài nước. Phối hợp chính sách thương mại với các chính sách liên quan (dịch vụ, lao động, môi trường, giáo dục – đào tạo, v.v...) nhằm bảo đảm thương mại mang lại nhiều lợi ích hơn cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong nước. Về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh: Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận các nguồn lực: (i) tín dụng chính thức; (ii) lao động có kỹ năng; (iii) khoa học – công nghệ; và (iv) kỹ năng quản trị, đặc biệt là quản trị rủi ro trong điều kiện hội nhập sâu rộng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cục Thông Tin KH&CN Quốc Gia (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp ần thứ 4, Hà Nội. 2. Đinh Thu Hằng và cộng sự (2018), Phát triển Thương mại điện tử trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp. Báo cáo nghiên cứu cho GIZ. 3. Google và Temasek (2018), Báo cáo e-Conomy SEA 2018. 4. Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2019. 5. Phạm Thanh Bình (2018), Thương mại điện tử cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu Cách mạng công nghiệp 4.0. Tạp chí tài chính tháng 8/2018. 6. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI, 2016), Cẩm nang doanh nghiệp: Tóm ược Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). 7. Khảo sát của trung tâm thương mại thế giới ITC (2017). 8. Krzysztof Witkowski (2017). Internet of Things, Big Data, Industry 4.0 – Innovative Solutions in Logistics and Supply Chains Management. Procedia Engineering, 182, 763-769. 9. Trần Anh Thư, Lương Thị Minh Phương (2018), Phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong bối cảnh kinh tế số. Tạp chí tài chính tháng 4/2018. 10. Trung tâm WTO và hội nhập – VCCI (2019), Văn kiện Hiệp định CPTPP và các Tóm tắt. 11. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2018), Hội nhập CPTPP trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Chuyên đề 21.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_hiep_dinh_cptpp_den_thuong_mai_dien_tu_cua_viet.pdf