Tác động của đại dịch Covid-19 đến khả năng chuyển đổi số của doanh nghiệp Việt Nam
Đại dịch COVID-19 đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, tác động mạnh mẽ đến kinh tế -
xã hội, nhưng bên cạnh đó, cũng mang lại những cơ hội đặc biệt cho các doanh nghiệp. Từ số liệu
điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2020 và bằng phương
pháp thống kê mô tả, phân tích thống kê cho thấy, đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy mạnh mẽ đến
năng lực chuyển đổi số ở hầu hết các mặt, trong đó các tiêu chí “Tỷ lệ số hóa trong giao tiếp và
phối hợp giữa các bộ phận trong doanh nghiệp”, “Tỷ lệ nhân viên có kiến thức và có thể sử dụng
công nghệ thông tin (CNTT) trong công việc”; “Tỷ lệ nhân viên được trang bị các thiết bị CNTT
tại nơi làm việc” phát triển mạnh mẽ hơn cả. Trong khi đó, không chỉ nguồn lực mà nhận thức
và tâm lý cũng là những rào cản đáng kể trong việc ứng dụng công nghệ số ở các doanh nghiệp.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của đại dịch Covid-19 đến khả năng chuyển đổi số của doanh nghiệp Việt Nam
riển sản phẩm/dịch vụ hoặc hoạt động quảng cáo của doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phân tích thống kê để chỉ ra năng lực chuyển đổi số của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch COVID-19. 3.1. Thực trạng năng lực chuyển đổi số của các doanh nghiệp Trước dịch COVID-19, năng lực chuyển đổi số của doanh nghiệp không cao. Ở tất cả tiêu chí đánh giá, đa phần tỷ lệ số hóa các lĩnh vực trong doanh nghiệp chỉ mới ở mức dưới 25%, số doanh nghiệp có tỷ lệ số hóa các lĩnh vực đạt trên 50% chiếm tỷ lệ thấp và rất ít doanh nghiệp có tỷ lệ số hóa đạt trên 75%. Mức độ chuyển đổi số giữa các lĩnh vực cũng phân hóa khác nhau. Trong đó, sự cải thiện về năng lực chuyển đổi số của người lao động là tiêu chí được đánh giá cao nhất, với gần một nửa doanh nghiệp có tỷ lệ trên 50% nhân viên được trang bị các thiết bị CNTT tại nơi làm việc cũng như có kiến thức và khả năng sử dụng CNTT. Xây dựng cơ sở dữ liệu khách hàng, chăm sóc khách hàng và hoạt động marketing là các lĩnh vực được đánh giá cao tiếp theo về tỷ lệ số hóa với 11,6% số doanh nghiệp có tỷ lệ thông tin khách hàng được số hóa của doanh nghiệp chiếm trên 50%, 11,3% số doanh nghiệp có tỷ lệ các hoạt động chăm sóc khách hàng và/tìm kiếm khách hàng mới được số hóa trong toàn bộ hoạt động chiếm trên 50%. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu Tỷ lệ số hóa trong giao tiếp và phối hợp giữa các bộ phận trong doanh nghiệp và Mức độ số hóa trong lập kế hoạch, đánh giá và giám sát nhân viên cũng được đánh giá ở trình độ tương đồng. Ở mức thấp nhất là các chỉ tiêu Tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm/dịch vụ được số hóa trong doanh thu của doanh nghiệp và Tỷ lệ sản phẩm/dịch vụ được số hóa trong số các dòng sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp, với hơn 50% số doanh nghiệp đánh giá các tỷ lệ này chỉ đạt mức dưới 10%. Hình 2. Năng lực chuyển đổi số của doanh nghiệp trước đại dịch COVID-19 0% 20% 40% 60% 80% 100% Tỷ lệ sản phẩm/dịch vụ được số hóa trong Tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm / dịch vụ Tỷ lệ doanh thu từ Thương mại điện tử Tỷ lệ các hoạt động chăm sóc khách hàng Mức độ số hóa trong lập kế hoạch, đánh Tỷ lệ số hóa trong giao tiếp và phối hợp giữa Tỷ lệ nhân viên có kiến thức và có thể sử dụng Tỷ lệ nhân viên được trang bị các thiết bị Tỷ lệ thông tin khách hàng được số hóa Tỷ lệ thông tin khách hàng được sử dụng Dưới 10% 10%-25% 25%-50% 50%-75% Trên 75% Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp của VCCI KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 545 Năng lực chuyển đổi số hiện nay (trong bối cảnh COVID-19 đang bùng phát và không ngừng lây lan) của các doanh nghiệp nói chung được mô tả chi tiết trong Hình 3. Dịch bệnh COVID-19 bùng phát đã gây nên những xáo trộn to lớn trên mọi phương diện và lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải điều chỉnh liên tục với những thách thức lớn chưa từng có. Doanh nghiệp đã bắt đầu nhận thấy nhu cầu về việc hoạt động sản xuất - kinh doanh và khía cạnh kỹ thuật số phối hợp đồng thời với nhau để giúp cuộc sống doanh nghiệp thích ứng và trở lại bình thường. Vì thế, trên tất cả các tiêu chí, Tỷ lệ số hóa ở nhiều lĩnh vực trong doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể so với thời điểm trước COVID-19 với số lượng lớn hơn các doanh nghiệp đạt tỷ lệ số hóa trên các lĩnh vực trên 50% và trên 75%. Một vài tiêu chí vẫn tiếp tục dẫn đầu về mức độ chuyển đổi số như: Tỷ lệ nhân viên được trang bị các thiết bị CNTT tại nơi làm việc hay Tỷ lệ nhân viên có kiến thức và khả năng sử dụng CNTT trong doanh nghiệp. Các tiêu chí khác tuy không có sự thay đổi đáng kể về mặt thứ tự cao thấp, xong đang dần trở nên đồng bộ hơn về mức độ chuyển đổi số, không còn phân hóa nhiều như trước dịch COVID-19. Một số tiêu chí như Tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm/dịch vụ được số hóa trong doanh thu của doanh nghiệp hay Tỷ lệ sản phẩm/dịch vụ được số hóa trong số các dòng sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp đã thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực, số lượng doanh nghiệp đánh giá các tỷ lệ này ở mức dưới 10% chỉ còn chiếm khoảng 1/3. Hình 3. Năng lực chuyển đổi số của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch COVID-19 0% 20% 40% 60% 80% 100% Tỷ lệ sản phẩm/dịch vụ được số Tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm / Tỷ lệ doanh thu từ Thương mại Tỷ lệ các hoạt động chăm sóc Mức độ số hóa trong lập kế hoạch, Tỷ lệ số hóa trong giao tiếp và phối hợp Tỷ lệ nhân viên có kiến thức và có thể Tỷ lệ nhân viên được trang bị các Tỷ lệ thông tin khách hàng được số Tỷ lệ thông tin khách hàng được sử Dưới 10% 10%-25% 25%-50% 50%-75% Trên 75% Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp của VCCI 3.2. Phân tích thống kê về năng lực chuyển đổi số của các doanh nghiệp Từ các mô tả trên cho thấy, năng lực chuyển đổi số của các doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đã tăng lên đáng kể ở tất cả các tiêu chí. Sự khác biệt về năng lực chuyển đổi số trước và trong dịch bệnh, một lần nữa được khẳng định, thông qua các kiểm định khác biệt được mô tả trong Bảng 1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 546 Bảng 1. Bảng kiểm định sự khác biệt về năng lực chuyển đổi số Biến số Mean Std. Err. P(T<t) Tỷ lệ SP/DV được số hóa trước đại dịch COVID-19 1,74 0,046 0,000 Tỷ lệ SP/DV được số hóa trong đại dịch COVID-19 2,08 0,048 Tỷ lệ đóng góp của các SP/DV được số hóa trước đại dịch COVID-19 1,73 0,046 0,000 Tỷ lệ đóng góp của các SP/DV được số hóa trong đại dịch COVID-19 2,05 0,049 Tỷ lệ doanh thu từ thương mại điện tử trước đại dịch COVID-19 1,74 0,047 0,000 Tỷ lệ doanh thu từ thương mại điện tử trong đại dịch COVID-19 2,05 0,049 Tỷ lệ các hoạt động chăm sóc khách hàng số hóa trước đại dịch COVID-19 1,95 0,053 0,000 Tỷ lệ các hoạt động chăm sóc khách hàng số hóa trong đại dịch COVID-19 2,28 0,052 Mức độ số hóa trong lập kế hoạch, đánh giá và giám sát nhân viên trước đại dịch COVID-19 1,96 0,489 0,000 Mức độ số hóa trong lập kế hoạch, đánh giá và giám sát nhân viên trong đại dịch COVID-19 2,32 0,053 Tỷ lệ số hóa trong giao tiếp và phối hợp trước đại dịch COVID-19 2,18 0,052 0,000 Tỷ lệ số hóa trong giao tiếp và phối hợp trong đại dịch COVID-19 2,59 0,057 Tỷ lệ nhân viên có kiến thức và có thể sử dụng CNTT trong công việc trước đại dịch COVID-19 2,31 0,053 0,000 Tỷ lệ nhân viên có kiến thức và có thể sử dụng CNTT trong công việc trong đại dịch COVID-19 2,70 0,056 Tỷ lệ nhân viên được trang bị các thiết bị CNTT tại nơi làm trước đại dịch COVID-19 2,64 0,065 0,000 Tỷ lệ nhân viên được trang bị các thiết bị CNTT tại nơi làm trong đại dịch COVID-19 3,04 0,062 Tỷ lệ thông tin khách hàng được số hóa trước đại dịch COVID-19 2,16 0,055 0,000 Tỷ lệ thông tin khách hàng được số hóa trong đại dịch COVID-19 2,49 0,053 Tỷ lệ thông tin khách hàng được sử trước đại dịch COVID-19 1,89 0,049 0,000 Tỷ lệ thông tin khách hàng được sử dụng trong đại dịch COVID-19 2,27 0,052 Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp của VCCI dựa trên phần mềm Stata16 Từ kết quả kiểm định sự khác biệt về năng lực chuyển đổi số được trình bày trong Bảng 1 cho thấy, khả năng chuyển đối số của các doanh nghiệp trong đại dịch cao hơn với trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra. Kết quả này hoàn toàn đồng nhất với các thống kê mô tả ở trên. Trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát nghiêm trọng, gây nên nhiều xáo trộn về hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, để tồn tại thì cộng đồng doanh nghiệp đã tìm cho mình những hướng đi phù hợp và chuyển đổi số là một giải pháp chiếm ưu thế. Do vậy, ngoài những mặt tiêu cực mà đại dịch COVID-19 gây ra thì cuộc khủng hoảng này cũng thúc đẩy mạnh mẽ năng lực chuyển đổi số. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 547 3.3. Rào cản về khả năng chuyển đổi số trong doanh nghiệp Mặc dù hầu hết các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng về khả năng chuyển đổi số đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh vẫn không ngừng bùng phát và gây hậu quả nghiêm trọng nhưng tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số vẫn cò ở mức hạn chế, hầu như dưới 50%. Phần lớn tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số tương ứng dưới 25% và 25% - 50% trước và trong đại dịch COVID-19. Một số rào cản đối với việc ứng dụng công nghệ số trong các doanh nghiệp được đề cập đến như: “Thiếu thông tin về công nghệ số; Thiếu nhân lực nội bộ để ứng dụng công nghệ số; Thiếu cơ sở hạ tầng công nghệ số (VD: cơ sở hạ tầng CNTT chưa phát triển); Thiếu cam kết/hiểu biết của cấp lãnh đạo doanh nghiệp; Thiếu cam kết/hiểu biết của người lao động; Chi phí ứng dụng công nghệ số cao; Sợ rò rỉ dữ liệu cá nhân/doanh nghiệp; Khó khăn trong thay đổi tập quán kinh doanh truyền thống trong nhóm ngành; Khó khăn trong việc tích hợp các công cụ CNTT nội bộ; Các quy định, quy tắc không phù hợp với số hóa (Ví dụ: văn bản gốc, chữ ký); Các quy định, quy tắc phải tuân theo không rõ ràng; Không cần thiết phải ứng dụng công nghệ số” (xem Hình 4). Hình 4. Rào cản đối với doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ số 2.3 8.5 10.3 15.0 15.8 18.3 21.9 30.4 32.3 33.9 38.9 55.6 0.0 10.0 20.0 30.0 40.0 50.0 60.0 Không cần thiết phải ứng dụng công nghệ số Các quy định, quy tắc phải tuân theo không Thiếu cam kết/hiểu biết của cấp lãnh đạo Thiếu cam kết/hiểu biết của người lao động Các quy định, quy tắc không phù hợp với số Khó khăn trong việc tích hợp các công cụ Khó khăn trong thay đổi tập quán kinh Thiếu thông tin về công nghệ số Thiếu nhân lực nội bộ để ứng dụng công Sợ rò rỉ dữ liệu cá nhân/doanh nghiệp Thiếu cở sở hạ tầng công nghệ số (VD: cơ Chi phí ứng dụng công nghệ số cao Nguồn: Số liệu điều tra doanh nghiệp của VCCI Theo phân tích từ kết quả khảo sát (Hình 4), có 55,6% doanh nghiệp cho biết, rào cản mà họ gặp phải khi áp dụng công nghệ số là bởi Chi phí cao trong ứng dụng công nghệ số. Để áp dụng được các công cụ kỹ thuật số, các phần mềm quản lý chuyên dụng đôi khi đòi hỏi doanh nghiệp bỏ ra một khoản chi phí tương đối lớn, đặc biệt là đầu tư vào mua sắm các thiết bị máy móc mới hoặc dây chuyền tự động hóa hiện đại cũng như đồng bộ hóa lại cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin trong doanh nghiệp. Do vậy, Thiếu cơ sở hạ tầng về công nghệ số cũng trở thành rào cản lớn tiếp theo với 38,9% doanh nghiệp gặp khó khăn về lĩnh vực này. Rào cản lớn thứ ba đối với doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 33,9% doanh nghiệp chính là Sợ rò rỉ dữ liệu cá nhân/doanh nghiệp. Sự phát triển nhanh chóng của CNTT tạo ra động lực để phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng làm nảy sinh những nguy cơ về lỗ hổng bảo mật, tạo điều kiện cho tội phạm mạng lợi dụng tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật. Trong khi đó, đa phần doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức hết được tầm quan trọng trong việc đầu tư áp dụng các giải pháp hỗ trợ để bảo mật thông tin trong doanh nghiệp. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 548 Thiếu nhân lực nội bộ để ứng dụng công nghệ số và Thiếu thông tin về công nghệ số là hai rào cản lớn tiếp theo, chiếm tỷ lệ lần lượt là 32,3% và 30,4%. Để áp dụng được các công cụ kỹ thuật số vào trong quy trình sản xuất - kinh doanh, không chỉ đòi hỏi lao động trong doanh nghiệp phải biết cách sử dụng hệ thống máy móc, thiết bị, phần mềm hiện đại mà còn phải đảm bảo khả năng sửa chữa khi có lỗi phát sinh và tiến hành các hoạt động bảo trì, bảo dưỡng thường xuyên. Các tổ chức làm nhiệm vụ môi giới và dịch vụ trong thị trường công nghệ để kết nối giữa nguồn cung và cầu công nghệ còn hạn chế, dẫn đến doanh nghiệp thiếu sự cập nhật và hiểu biết về những xu thế công nghệ mới. Ngoài hạn chế nguồn lực thì những hạn chế hạn chế trong nhận thức và tâm lý là những rào cản khiến nhiều doanh nghiệp đang lựa chọn đứng ngoài cuộc trong xu thế chuyển đổi số hiện nay. Chuyển đổi số đòi hỏi doanh nghiệp phải sẵn sàng thay đổi, sẵn sàng từ bỏ các mô hình kinh doanh truyền thống để thiết lập mô hình kinh doanh mới, thiết lập lại quy trình làm việc, loại bỏ những công đoạn trung gian, rườm rà trên cơ sở ứng dụng công nghệ số. Tâm lý ngại thay đổi, ngại từ bỏ những tập quán kinh doanh truyền thống được duy trì nhiều năm khiến 21,9% doanh nghiệp cảm thấy khó khăn khi tiến hành chuyển đổi số. 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Đại dịch COVID-19 như một hồi chuông cảnh báo các doanh nghiệp phải kịp thời nắm bắt xu thế chuyển đổi số để nhanh chóng vượt qua đại dịch. Nghiên cứu này cho thấy nhận thức về chuyển đổi số trong doanh nghiệp Việt Nam đã có những dấu hiệu tích cực, cụ thể là một tỷ lệ lớn doanh nghiệp đã áp dụng các công nghệ số trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra và khi đại dịch xảy ra thì tỷ lệ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ số hay khả năng chuyển đổi số cũng đã tăng lên một cách đáng kể. Tuy phần lớn các doanh nghiệp đã trang bị những năng lực nhất định để tiến hành chuyển đổi số nhưng mới chỉ ở mức độ cơ bản và sơ khai, tỷ lệ số hóa chiếm trong sản phẩm/dịch vụ còn thấp, tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm/dịch vụ được số hóa trong tổng doanh thu không cao. Những rào cản chủ yếu khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong chuyển đổi số được kể đến như: chi phí ứng dụng công nghệ số cao, thiếu cơ sở hạ tầng, sợ rò rỉ dữ liệu doanh nghiệp, thiếu nhân lực có trình độ, trong đó, chi phí cho việc ứng dụng công nghệ số là rào cản lớn nhất. Từ những kết quả kể trên có thể thấy, chuyển đổi số là một trong những hướng đi chủ đạo giúp các doanh nghiệp vượt qua đại dịch, nhưng để chuyển đổi số được thực hiện thì các doanh nghiệp cũng gặp không ít các rào cản. Để giúp cộng đồng các doanh nghiệp khắc phục khó khăn, đồng thời, nhanh chóng áp dụng tối đa ứng dụng công nghệ số trong các hoạt động để phát triển, Chính phủ nên có thêm những hỗ trợ để doanh nghiệp dễ dàng hơn trong chuyển đổi số. Đặc biệt, Chính phủ có nên chú trọng xây dựng các quy tắc, quy định thúc đẩy kinh doanh điện tử thay cho hình thức sử dụng giấy tờ truyền thống, hỗ trợ tài chính cho ứng dụng công nghệ số, minh bạch hóa các quy tắc, quy định về quản lý dữ liệu để có thể hy vọng có những thay đổi lớn trong xu thế chuyển đổi số tại các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021 Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển 549 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Eisenhardt, K. M., & Martin, J. A. (2000), “Dynamic capabilities: What are they?”, Strategic Management Journal, 21(10 - 11), 1105-1121. https://doi.org/10.1002/1097- 0266(200010/11)21:10/113.0.CO;2-E. 2. Porter, M. E., & Millar, V. E. (1985), “How information gives you competitive advantage”, Harvard Business Review, 63(4), 149 - 160. 3. Sambamurthy, V., Bharadwaj, A. and Grover, V., 2003, “Shaping Agility through Digital Options: Reconceptualizing the Role of Information Technology in Contemporary Firms”, Management Information Systems Research Center, University of Minnesota, Vol.27, No.2, pp.237 - 263.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_dai_dich_covid_19_den_kha_nang_chuyen_doi_so_cu.pdf