Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng

Một trong những mục tiêu của hành trình đổi mới giáo dục hiện nay là tập trung giúp học

sinh từ bậc tiểu học đến bậc trung học phổ thông hình thành, phát triển những năng lực cốt lõi

và những phẩm chất nền tảng đối với sự phát triển nhân cách mỗi em khi trưởng thành. Chương

trình giáo dục tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển những nền móng cho sự phát triển

hài hoà về thể chất và tinh thần, về phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về

giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nề nếp cần thiết trong học tập và sinh

hoạt (Bộ GD & ĐT, 2018).

Để thực hiện đúng định hướng giáo dục quốc gia dành cho bậc tiểu học, đội ngũ giáo viên

đóng vai trò rất quan trọng. Học sinh tiểu học đặc biệt cần sự thấu hiểu và hướng dẫn cụ thể,

phù hợp của giáo viên; đội ngũ giáo viên là những tấm gương quan trọng cả trong ứng xử và

trong cách giáo dục đối với mỗi học sinh. Hình ảnh và cách làm việc của họ hàng ngày tại

trường, tại lớp tác động trực tiếp tới học sinh, tới những thói quen học tập và ứng xử của các

con trong những năm tháng đầu tiên của bậc học phổ thông (Nguyễn Thị Mỹ Lộc & CS, 2010;

Tran Thi Le Thu, 2014). Chính vì vậy việc đào tạo đội ngũ giáo viên để họ hiểu đúng định

hướng đổi mới và có mục tiêu cập nhật kiến thức, kĩ năng và các chiến lược, phương pháp giáo

dục học sinh là việc làm rất cần thiết hiện nay.

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 1

Trang 1

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 2

Trang 2

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 3

Trang 3

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 4

Trang 4

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 5

Trang 5

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 6

Trang 6

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng trang 7

Trang 7

pdf 7 trang duykhanh 2680
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng

Tác động của chương trình giáo dục giá trị sống – kĩ năng sống đối với giáo viên huyện Tiên Lãng – Hải Phòng
n thân 4,32 0,824 
 c7- Tự tin áp dụng GTS- KNS cho gia đình 4,24 0,817 
 Chú thích: c1- câu 1, c2- câu 2, c3- câu 3, c4- câu 4, c5- câu 5, c6- câu 6, c7- câu 7. 
 Điểm Min=1, điểm Max= 5, Tổng mẫu kháo sát=471 
 Có thể thấy ở cả 7 khía cạnh khảo sát sau tập huấn giáo viên đều đánh giá ở mức cao (điểm 
trung bình đều trên 4), trong đó item giáo viên đánh giá rất cao (cao nhất) là “nội dung khoá tập 
huấn này đáp ứng và phù hợp mong đợi của mình” (ĐTB= 4,64); tiếp đó là các giáo viên tự 
90 
 Tác động của chương trình giáo dục Giá trị sống - Kĩ năng sống đối với giáo viên... 
đánh giá “mình đã nắm rõ chương trình sau khi được tập huấn” (ĐTB= 4,54), “mình tự tin áp 
dụng GTS- KNS cho bản thân” (ĐTB= 4,32). Như vậy khoá tập huấn được đánh giá cao về tính 
phù hợp, tính hữu ích và giúp giáo viên không chỉ tăng sự tự tin áp dụng GTS- KNS cho bản 
thân mà còn tăng sự tự tin trong việc áp dụng GTS- KNS tại gia đình và trường học. 
 Biểu hiện của đa số giáo viên trong suốt hai ngày tập huấn là họ rất hứng thú và tập trung 
vào những hoạt động khám phá GTS- KNS ở bản thân, họ quan tâm và dành nhiều thời gian 
chia sẻ cũng như thảo luận về các cách làm giàu GTS- KNS cho bản thân và gia đình của mình. 
 Bảng 3. Kiểm định so sánh mức độ tự tin áp dụng cho bản thân và gia đình của giáo viên 
 Khác biệt theo cặp t df Sig. 
 Trung Độ Trung Khoảng tin cậy (2-
 bình lệch bình khác biệt 95% đuôi) 
 chuẩn sai số Thấp Cao 
 chuẩn hơn hơn 
 Cặp: c6 (bản thân 0,085 0,660 0,030 0,025 0,145 2,793 470 0,005 
 – c7 – (gia đình) 
 So sánh mức độ tự tin áp dụng kiến thức về KNS - GTS cho bản thân và cho gia đình: Kiểm 
định t-test so sánh cặp với hệ số Sig. = 0,005 < 0,05 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê về điểm TB của 2 item c6 (ĐTB= 4,32) và c7 (ĐTB= 4,24), chứng tỏ mức tự tin áp dụng 
GTS- KNS cho bản thân cao hơn mức tự tin áp dụng vào gia đình. Điều này cũng có thể do mục 
tiêu tập huấn tập trung nhiều hơn vào khám phá GTS- KNS ở bản thân mỗi giáo viên; cũng có 
thể do nhiều lí do khách quan hoặc chủ quan khác nữa. Bằng chứng triển khai cho thấy việc áp 
dụng cho gia đình chỉ có thể hiệu quả khi dựa trên thực tế là mỗi giáo viên đã có kinh nghiệm áp 
dụng cho chính bản thân và có những kết quả nhất định. (Living values, 2000). 
 So sánh mức độ tự tin áp dụng kiến thức về KNS- GTS cho học sinh và cho gia đình: Kiểm 
định t-test so sánh cặp với hệ số Sig. = 0,910 > 0,05 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về điểm TB của 2 item c5 (áp dụng cho học sinh) và c7 (áp dụng tại gia đình). Như 
vậy sau khoá tập huấn mức độ áp dụng GTS tại gia đình và với học sinh là như nhau (ĐTB 
đều là 4,24). 
 Bảng 4. Kiểm định so sánh mức độ tự tin áp dụng cho bản thân và học sinh của giáo viên 
 Khác biệt theo cặp t df Sig. 
 Trung Độ Trung Khoảng tin cậy (2-
 bình lệch bình khác biệt 95% đuôi) 
 chuẩn sai số Thấp Cao 
 chuẩn hơn hơn 
 Cặp: c5 (học sinh 0,089 0,744 0,034 -0,157 -0,022 -2,601 470 0,010 
 – c6 – (bản thân) 
 So sánh mức độ tin tin áp dụng kiến thức về GTS- KNS cho bản thân và cho học sinh: 
Kiểm định t-test so sánh cặp với hệ số Sig, = 0,010 < 0,05 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê về điểm TB của 2 item c5 và c6, như vậy mức độ tự tin áp dụng cho bản thân (ĐTB= 
4,32) cao hơn cho học sinh (ĐTB= 4,24). 
 Kết quả khảo sát ý kiến của giáo viên về điều hữu ích nhất với họ trong khoá tập huấn cho 
thấy: 53,9% giáo viên cho rằng điều hữu ích nhất với họ là nhờ khoá tập huấn họ đã hiểu bản chất 
GTS- KNS, nhận ra ý nghĩa của GTS- KNS với bản thân, gia đình; 40% cho là họ được trải 
nghiệm và học được các phương pháp/kĩ thuật giáo dục GTS- KNS đa dạng. Các giáo viên còn lại 
cho rằng điều hữu ích nhất là: có mong muốn làm giàu GTS- KNS cho chính mình & gia đình 
mình; chia sẻ và học được nhiều điều bổ ích từ các đồng nghiệp trong khóa học/gần gũi nhau hơn. 
 Tổng hợp kết quả phỏng vấn sau mỗi ngày học trên 37 giáo viên được lựa chọn ngẫu nhiên 
 91 
 Trần Thị Lệ Thu*, Nguyễn Thị Nhân Ái, Phạm Thị Diệu Thuý, Giang Thị Ngọc Hân và Nguyễn Đức Giang 
cho thấy tương đồng với kết quả khảo sát bằng bảng hỏi, điều giáo viên được tác động nhiều & 
học hỏi được nhiều hơn cả cũng chính là cho bản thân họ, gia đình họ rồi sau đó là tới những 
nội dung áp dụng cho học sinh, trường học. Cụ thể: 35/37 giáo viên chia sẻ: “Qua ngày học họ 
rõ hơn được các GTS- KNS còn lơ mơ, biết thêm nhiều GTS, hiểu thêm về từng giá trị sống, 
định danh được 12 giá trị và các KNS quan thuộc, sẽ chú ý rèn luyện bản thân nhiều hơn hàng 
ngày”. 28/37 giáo viên chia sẻ: “Biết được GTS- KNS để truyền đạt cho con cái, học sinh, 
truyền đạt giá trị sống cho học sinh rất cần thiết, học được nhiều nội dung để về truyền thụ cho 
học sinh, học được kĩ thuật tổ chức lớp học & học được cách truyền thụ bài học GTS- KNS cho 
học sinh tiểu học, bổ sung thêm về nghiệp vụ”. 29/37 giáo viên chia sẻ rằng: “Cảm thấy đoàn 
kết, trách nhiệm, ấn tượng, hứng thú, bổ ích & vui vẻ trong hai ngày học”. 13/37 giáo viên cho 
biết họ: “Được trải nghiệm rất nhiều, biết thêm được nhiều điều trong cuộc sống qua khám phá 
GTS- KNS, chia sẻ, gần gữi và hiểu được bạn bè đồng nghiệp”. 
 Bảng 5. Trích dẫn chia sẻ của 04 giáo viên trong 35 giáo viên 
 “Hy vọng diệt được con sói ác trong bản thân, hạnh phúc khi nắm được GTS- KNS, GTS- 
 KNS không khó hiểu và phức tạp như tôi nghĩ; tôi sẽ sống chậm lại và yêu thương nhiều 
 hơn” (Phạm Th. B.). 
 “Hiểu hơn về GTS và KNS để áp dụng ở trường và ở nhà, hiệu quả ngoài mong đợi, tôi biết 
 lắng nghe, thấu hiểu & kiểm soát hành vi tốt hơn từ mai” (Trần Th. X. H.). 
 “Tôi đã nắm vững hơn về GTS và KNS để áp dụng cho con & cho học sinh” (Nguyễn Th. Ch.). 
 “Khóa học quá ý nghĩa cho bản thân. Mọi người được nói & chia sẻ rất nhiều, cô giáo giảng 
 bài và tôi đã khóc trong một số thời điểm”(Đoàn Th. Th. H.). 
 Qua phỏng vấn các giáo viên cũng cho biết những khía cạnh ít hiệu quả của khoá tập huấn 
này là: vì mỗi khoá đông quá (trên 200 giáo viên/khoá) nên còn nhiều học viên ít có cơ hội tham 
gia nhiều hoạt động/trải nghiệm họ muốn và thích; thời gian tập huấn ngắn quá; chưa được dự tiết 
dạy minh hoạ, nhiều học viên do đông nên chưa thật tích cực tham gia hoạt động trải nghiệm. 
 Sự khác biệt kết quả giữa hai lần tập huấn: Kiểm định t-test so sánh hai mẫu độc lập với 
các hệ số Sig. < 0,05 cho thấy có sự khác biệt về điểm trung bình của các item c1 đến c7 giữa 
hai lần tập huấn, điểm TB của lần 2 cao hơn lần 1 một cách có ý nghĩa thống kê (c1: ĐTB lần 
1= 4,55, ĐTB lần 2= 4,72; c2: ĐTB lần 1= 4,46, ĐTB lần 2= 4,62; c3: ĐTB lần 1= 4,08, ĐTB 
lần 2= 4,44; c4: ĐTB lần 1= 3,91, ĐTB lần 2= 4,17; c5: ĐTB lần 1= 4,08, ĐTB lần 2= 4,38; c6: 
ĐTB lần 1= 4,14, ĐTB lần 2= 4,50; c7: ĐTB lần 1= 4,06, ĐTB lần 2= 4,41). Hai lần tập huấn 
cách nhau 1 tháng, lần tập huấn hai được rút kinh nghiệm và điều chỉnh theo góp ý của khảo sát 
sau khoá 1. Những khía cạnh điều chỉnh cụ thể đó là: Tăng thời gian học từ 7 tiếng lên 8 tiếng/1 
ngày; có thêm 01 trợ giảng; thêm học cụ; phân nhóm nhỏ hơn để khắc phục tình trạng khoá tập 
huấn quá đông; tăng thêm hoạt động giao lưu, trò chơi; cung cấp tài liệu ngay khi học. 
 Như vậy ở cả hai khoá tập huấn với 471 giáo viên tiểu học đều cho thấy chương trình giáo 
dục GTS- KNS tác động mạnh và hiệu quả trước tiên là tới bản thân mỗi giáo viên, đa số giáo 
viên tham gia đều đánh giá cao mức tự tin áp dụng cho chính bản thân mình rồi sau đó mới đến 
áp dụng cho gia đình và học sinh. 
2.3.2. Những ý kiến chia sẻ và góp ý để cải thiện hiệu quả các khoá tập huấn tiếp theo 
 Bảng 6. Ý kiến giáo viên về phương án giáo dục GTS- KNS 
 STT Phương án GD GTS-KNS Số lượng % 
 1 Chỉ dạy/Giáo dục KNS 5 1,1 
 2 Chỉ dạy/Giáo dục GTS 0 0,0 
 3 Dạy/Giáo dục đồng thời GTS và KNS 461 97,9 
 4 Không có ý kiến 5 1,1 
 471 100 
92 
 Tác động của chương trình giáo dục Giá trị sống - Kĩ năng sống đối với giáo viên... 
 Kết quả thăm dò ý kiến 471 giáo viên về phương án giáo giạ GTS- KNS nên thực hiện 
trong trường tiểu học cho thấy hầu hết (97,9%) giáo viên cho rằng giáo dục đồng thời cả GTS 
và KNS; chỉ có 5 giáo viên cho rằng chỉ nên tập trung giáo dục/dạy KNS. Điều này cũng phù 
hợp với quan điểm và cách tiếp cận hiện nay về giáo dục GTS- KNS cho học sinh tiểu học của 
Bộ GD & ĐT, cũng như của nhiều chương trình giáo dục GTS- KNS cập nhật trong và ngoài 
nước. (Tran Thi Le Thu, 2014; Nguyễn Thị Thanh Bình & Cs, 2018, Living values, 2000). 
 Các giáo viên tham gia khảo sát cũng cho biết những khó khăn, trở ngại khi triển khai giáo 
dục GTS- KNS cho học sinh tiểu học tại Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng. Khó khăn phần lớn nằm 
ở thực tế họ chưa được đào tạo về GTS- KNS, còn thiếu kiến thức, kĩ năng và trải nghiệm/kinh 
nghiệm về phương pháp giáo dục/dạy GTS- KNS cho đối tượng học sinh tiểu học. Bên cạnh đó 
là những khó khăn về thời gian, về sự phối hợp của gia đình, cơ sở vật chất, lớp học sĩ số đông. 
Những tồn tại này sẽ được sớm khắc phục trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục 
hiện nay theo chỉ đạo của Bộ GD & ĐT; nhiều tập huấn hơn nữa sẽ được thực hiện với giáo 
viên, các bộ sách giáo khoa và sách tham khảo trong lĩnh vực giáo dục trải nghiệm, giáo dục đạo 
đức, giáo dục GTS- KNS sẽ được thẩm định và xuất bản; thời gian dành cho các hoạt động giáo 
dục này sẽ được chính thức xuất hiện trong thời khoá biểu của học sinh (Bộ GD & ĐT, 2018). 
 Bảng 7. Ý kiến giáo viên về những khó khăn trong giáo dục GTS- KNS 
 STT Khó khăn trong GD GTS-KNS Số lượng % 
 1 Bản thân chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức 47 10,0 
 GD GTS-KNS 
 2 Còn bỡ ngỡ về phương pháp, kĩ thuật GD GTS-KNS 60 12,7 
 3 Nhận thức của HS còn hạn chế, HS còn rụt rè, chưa mạnh dạn 44 9,3 
 4 Cơ sở vật chất còn thiếu 51 17,8 
 5 Khó khăn về việc bố trí thời gian 44 9,3 
 6 Hạn chế về năng lực, khả năng chia sẻ của GV 15 3,2 
 7 Chưa có sự đồng thuận cao của phụ huynh HS 11 2,3 
 8 Số lượng HS trong một lớp đông, HS không đồng đều 69 14,6 
 9 Chương trình quá nhiều môn học gây áp lực cho HS 16 3,4 
 10 Tài liệu còn thiếu, giá cao so với nông thôn 20 4,2 
 11 Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và XH 32 6,8 
 12 Thiếu chuyên gia tâm lí 3 0,6 
 Kết quả khảo sát cũng thu được những ý kiến cụ thể về việc cải thiện các khoá tập huấn 
GTS- KNS cho giáo viên tiểu học tiếp theo tại Huyện Tiên Lãng- Hải Phòng. 71% giáo viên đề 
xuất tăng thời gian tập huấn (vì 2 ngày ít quá), chia nhỏ lớp học chỉ 30- 40 người để có cơ hội 
tham gia nhiều hoạt động trải nghiệm vì lớp đông, chưa tới lượt đã kết thúc. 5,9% đề xuất tăng 
thời gian thực hành, tăng tiết dạy minh hoạ; 2,3% đề xuất cách tổ chức lớp, học cụ và không 
gian lớp cần quản lí và bố trí hợp lí hơn. 1,5% giáo viên cho là nên thêm hoạt động văn nghệ, 
giao lưu trong mỗi buổi học. 2,1% giáo viên đề xuất cung cấp đủ tài liệu ngay khi tham gia học. 
 Một số đề xuất sau khoá tập huấn thứ nhất chúng tôi đã kịp thời điều chỉnh và hiệu quả tập 
huấn có cải thiện khi so sánh giữa hai lần tập huấn. Còn một số khía cạnh chưa khắc phục kịp 
thời chúng tôi đề xuất thay đổi, điều chỉnh trong các khoá tiếp theo đó là: (1) chia nhỏ khoá tập 
huấn với sĩ số tối đa là 40, tăng thời gian tối thiểu là 3 ngày, chuẩn bị học cụ đầy đủ, bố trí 
không gian phù hợp hơn và tăng thêm nội dung thực hành cũng như tiết dạy minh hoạ. 
3. Kết luận 
 Hai khoá tập huấn giáo dục GTS- KNS dành cho 471 giáo viên tiểu học Huyện Tiên Lãng 
Hải Phòng trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay đã chứng tỏ định hướng đổi mới là cần 
 93 
 Trần Thị Lệ Thu*, Nguyễn Thị Nhân Ái, Phạm Thị Diệu Thuý, Giang Thị Ngọc Hân và Nguyễn Đức Giang 
thiết và phù hợp; hầu hết giáo viên phản hồi là tập huấn cần thiết, có ý nghĩa thiết thực với bản 
thân họ & công việc hiện nay. Kết quả phân tích, tổng hợp tác động của khoá tập huấn tới 471 
giáo viên cho thấy tập huấn mang lại hiệu quả thay đổi, áp dụng GTS- KNS cho chính bản thân 
và gia đình của mỗi giáo viên trước tiên, sau đó là sự tự tin và hiểu biết của giáo viên để áp 
dụng vào giáo dục GTS- KNS cho học sinh tiểu học. Nghiên cứu cũng chỉ ra các khoá tập huấn 
cần được quản lí và tổ chức hợp lí hơn về sĩ số, thời gian, học cụ, không gian và đặc biệt là tăng 
nội dung/hoạt động trải nghiệm & thực hành giảng dạy GTS- KNS trên học sinh tiểu học. 
 Ghi chú: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia 
(NAFOSTED), trong đề tài mã số 501.01-2016.01. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Thị Thanh Bình, Lưu Thu Thuỷ, Đào Thị Oanh, Nguyễn Thị Kim Dung, Lê Thị 
 Thu Hà, Nguyễn Hoàng Đoan Huy, Vũ Thị Hồng, 2018. Phát triển năng lực cốt lõi cho 
 học sinh phổ thông theo tiếp cận giá trị và kĩ năng sống. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
[2] Bộ giáo dục và đào tạo, 2018. Chương trình giáo dục phổ thông, chương trình tổng thể. Bộ 
 GD & ĐT. 
[3] Diane Tillman & Diana Hsu, 2010. Những Giá trị sống cho trẻ 3- 7 tuổi. Nxb Tổng hợp 
 Tp. Hồ Chí Minh. 
[4] Diane Tillman, 2010. Những Giá trị sống cho trẻ 8 -14 tuổi. Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 
[5] Diane Tillman & Diana Hsu, 2010. Những Giá trị sống trong giáo dục con trẻ. Nxb Tổng 
 hợp TP. Hồ Chí Minh. 
[6] Living values, 2000. Chương trình giáo dục những Giá trị sống - Giáo trình huấn luyện 
 giáo dục viên. Living values: An educational Program, Inc. 
[7] Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Bùi Thị Thúy Hằng, 2010. Giáo dục GTS và 
 KNS cho học sinh tiểu học (tài liệu dùng cho GV tiểu học). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[8] Tran Thi Le Thu, 2014. Living Values & life skills programs in Vietnamese schools. ICER 
 2014, Inovations & good Practices in Education: Global Perspective, 7, 343- 352. 
 ABSTRACT 
 The impact of living value and life skills in educational program 
 On teachers in Tien Lang- Hai Phong 
 Tran Thi Le Thu*1, Nguyen Thi Nhan Ai1, Pham Thi Dieu Thuy1, 
 Giang Thi Ngoc Han2 và Nguyen Duc Giang2 
 1Faculty of Psychology, Hanoi National University of Education 
 2Fund for Yough Talent in Education and Psychology, 
 Vietnam Association of Psychology and Education 
 The paper analyzes the impact of living value and life skills in educational program 
throughout the aspects of awareness, attitudes, behaviors and self-confidence of 471 primary 
teachers in Tien Lang, Hai Phong in applying living values and life skills for themselves, their 
family and students. The surveys were applied on teachers' opinions of implementation of life 
skill education for elementary school students in Tien Lang, Hai Phong. Then this paper helps to 
analyze the difficulties, advantages and suggest recommendations for the teacher to improve 
their education. This paper also discusses some factors that need to be supplemented, adjusted to 
improve the quality and effectiveness of training for elementary teachers in Tien Lang, Hai 
Phong in the context of educational renovation in Vietnam. 
 Keywords: living value, life skills, impact, self-confidence, elementary teachers. 
94 

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_chuong_trinh_giao_duc_gia_tri_song_ki_nang_song.pdf