Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư

Thực hiện kế hoạch năm học 2019-2020 đã được nhà trường phê duyệt từ

đầu năm học, Khoa Kinh tế - Luật tổ chức buổi hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề

“Tác động của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tới thương mại và đầu tư của Việt

Nam”. Là một giảng viên thuộc bộ môn Luật Chuyên ngành, Khoa Kinh tế - Luật, nh m thực

hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của cá nhân c ng như thực hiện kế hoạch nghiên cứu

khoa học năm học 2019-2020 của khoa, tôi đã tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu và giới thiệu

với hội nghị một trong những vấn đề thuộc chủ đề của hội thảo, đó là: “Sự tương thích giữa

quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA

về bảo hộ đầu tư”. Bài hội thảo đã trình bày về sự cần thiết, bối cảnh ra đời c ng như những

nội dung cụ thể của vấn đề bảo đảm đầu tư được quy định trong hai văn bản nói trên. Từ đó

phân tích và đánh giá những điểm tương đồng và khác biệt nhất định giữa hai văn bản khi

cùng đề cập đến một vấn đề đó là những cam kết của quốc gia tiếp nhận đầu tư đối với một số

quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư. Qua đây, hy vọng bài hội thảo có thể đóng góp

một phần nh bé vào quá trình hoàn thiện pháp luật đầu tư Việt Nam nói riêng c ng như cải

thiện thể chế đầu tư nói chung trong tiến trình Việt Nam tham gia và phê chuẩn các hiệp định

tự do thế hệ mới trong đó có EVIPA.

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 1

Trang 1

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 2

Trang 2

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 3

Trang 3

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 4

Trang 4

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 5

Trang 5

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 6

Trang 6

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 7

Trang 7

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 8

Trang 8

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 4840
Bạn đang xem tài liệu "Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư

Sự tương thích giữa quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và quy định của hiệp định EVIPA về bảo hộ đầu tư
sản của công dân. Vì vậy, tài sản của nhà đầu 
tư tạo lập được trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh cũng không phải là một 
ngoại lệ trong tình huống này. 
1043 
Trong những trường hợp nhất định, nhà nước tiếp nhận đầu tư có toàn quyền quyết 
định đối với tài sản của nhà đầu tư nói riêng cũng như tài sản của các chủ thể khác nói chung 
trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia của mình. Thậm chí có trường hợp quốc gia tiếp nhận 
đầu tư còn có quyền tuyên bố biến tài sản thuộc sở hữu của nhà đầu tư thành tài sản thuộc sở 
hữu của nhà nước thông qua thủ tục ―quốc hữu hoá‖. Và không phải trường hợp nào các nhà 
đầu tư bị tuyên bố quốc hữu hoá tài sản cũng được đền bù kinh phí từ phía nhà nước thực hiện 
quy trình đặc biệt này. Như vậy, nhà đầu tư có thể sẽ ―mất trắng‖ tài sản đầu tư của mình khi 
bị nhà nước tiếp nhận đầu tư ―tịch thu‖ hay ―sung công‖ tài sản. Từ đây có thể thấy bên cạnh 
những nguy cơ xâm hại quyền sở hữu tài sản từ các chủ thể khác trong xã hội thì bản thân các 
nhà đầu tư lại phải đối mặt với một nguy cơ rất lớn là gặp rủi ro thiệt hại toàn bộ tài sản đầu 
tư trong kinh doanh đến từ chính các quốc gia tiếp nhận đầu tư thông qua quá trình thực thi 
quyền lực tuyệt đối của mình trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. 
Thực tế cũng không hiếm những trường hợp các quốc gia trên thế giới đã thực hiện 
quá trình quốc hữu hoá này, có thể kể đến trường hợp của các công ty khai thác và chế biến 
dầu của nước ngoài bị chính phủ Mexico tuyên bố quốc hữu hoá vào năm 1938 ; các trường 
hợp trưng thu tài sản của tư nhân của các nước Đông Âu sau thế chiến thứ hoặc quá trình tịch 
thu tài sản nhà đầu tư nước ngoài của các quốc gia đang phát triển trong quá trình thuộc địa 
hoá
35
. Một trường hợp điển hình gần đây là của chính phủ Argentina khi tuyên bố quốc hữu 
hoá công ty YPF – công ty xăng đầu lớn nhất đất nước này vào năm 2012. Được biết trước 
khi bị quốc hữu hoá công ty YPF do một công ty của Tây Ban Nha là Repsol nắm giữ phần 
lớn cổ phần và sau khi tuyên bố này của chính phủ Argentina thì số cổ phần mà công ty này 
nắm giữ giảm xuống chỉ còn khoảng 1/10 so với ban đầu. Việc này đã gây ra những căng 
thẳng nhất định cho hai quốc gia trong quan hệ kinh tế trong một thời gian dài, thậm chí Tây 
Ban Nha còn tiến hành các biện pháp trả đũa kinh tế và yêu cầu phía Argentina phải đền bù 
cho Repsol
36. Như vậy có thể thấy, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác thì việc thực hiện quá 
trình quốc hữu hoá cũng sẽ gây ra những thiệt hại nhất định cho những nhà đầu tư là đối 
tượng của chiến địch này. 
Chính vì vậy để làm yên lòng các nhà đầu tư cũng như thể hiện sự thiện chí của mình 
đối với họ, các quốc gia tiếp nhận đầu tư trong đó có Việt Nam luôn thiết kế các quy định 
mang tính cam kết bảo đảm quyền sở hữu tài sản của các nhà đầu tư với nội dung ―không 
quốc hữu hoá hoặc tịch thu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư b ng biện pháp hành chính‖37. 
Với cam kết này, các nhà đầu tư vào Việt Nam hoàn toàn yên tâm về việc tài sản hợp pháp 
của họ sẽ không bị nhà nước Việt Nam biến thành tài sản quốc gia thông qua các biện pháp 
hành chính. Và như vậy, nguy cơ rủi ro ở mức độ cao nhất là ―mất trắng‖ toàn bộ tài sản của 
nhà đầu tư vào tay nhà nước là bằng không nếu như tiến hành hoạt động đầu tư kinh doanh tại 
Việt Nam. Tiếp theo đó, kể cả trong những trường hợp ―vì lý do quốc phòng an ninh‖ hoặc ―vì 
35 A.Lowenfeld(2002), International Economic Law, Oxford University Press 
36 https://baomoi.com/quoc-huu-hoa-dau-mo-argentina-gay-soc/c/8374642.epi 
37 Khoản 1 điều 9 Luật Đầu tư 2014 
1044 
lợi ích quốc gia‖ hay ―trong những tình trạng khẩn cấp‖ thì tài sản của nhà đầu tư cũng chỉ bị 
nhà nước Việt Nam ―trưng mua, trưng dụng‖ và trong tình huống này nhà đầu tư sẽ được 
―thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật trưng mua, trưng dụng tài sản và quy 
định khác của pháp luật có liên quan” (khoản 2 điều 9 Luật Đầu tư 2014). Như vậy, tài sản 
thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư chỉ có khả năng bị xâm hại thông qua quy trình ―trưng 
mua, trưng dụng‖ cuả nhà nước với một sự đền bù kinh phí thoả đáng theo quy định của pháp 
luật. Quan trọng hơn, khả năng này cũng rất hạn chế xảy ra khi lý do để tiến hành ―trưng mua, 
trưng dụng‖ cũng chỉ được quy định hạn hẹp trong một số trường hợp nhất định. Ngoài ra, 
biện pháp bảo đảm đầu tư này là một sự hứa hẹn, cam kết dành cho tất cả các nhà đầu tư có 
hoạt động đầu tư theo pháp luật Việt Nam, không phân biệt quốc tịch cũng như nguồn gốc tài 
sản đầu tư của nhà đầu tư. 
Về vấn đề này, quy định của EVIPA cũng có những nội dung tương tự như Luật Đầu 
tư 2014 của Việt Nam khi khẳng định ―Một Bên không được quốc hữu hóa hoặc trưng dụng 
các khoản đầu tư được bảo hộ của các nhà đầu tư của Bên kia trực tiếp hoặc gián tiếp thông 
qua các biện pháp tương đương với quốc hữu hóa hoặc trưng dụng (sau đây gọi là “trưng 
dụng”), ngoại trừ: (a) vì mục đích công cộng; (b) được thực hiện thông qua quy trình hợp 
pháp;(c) dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử; và(d) được bồi thường nhanh chóng, đầy đủ 
và hiệu quả‖38. Vậy là theo Hiệp định, các bên bao gồm Việt Nam và EU không được phép 
tiến hành biện pháp ―quốc hữu hoá‖ hoặc bất kỳ biện pháp gì có tính chất tương tự đối với tài 
sản hoặc những khoản đầu tư của nhà đầu tư phía bên kia để bảo đảm sự an toàn về tài sản 
của họ. Tuy nhiên trong một số trường hợp ngoại lệ khẩn cấp hoặc vì những lợi ích to lớn 
mang tính cộng đồng thì nhà nước tiếp nhận đầu tư có thể sử dụng biện pháp trưng dụng 
nhưng phải đảm bảo quy trình theo quy định của pháp luật, đối xử công bằng và đảm bảo bồi 
thường cho nhà đầu tư một cách kịp thời và thoả đáng 
Bên cạnh những điểm tương đồng trong việc đảm bảo quyền sở hữu tài sản của nhà 
đầu tư trước quyền tuyên bố trưng dụng tài sản của quốc gia tiếp nhận đầu tư thì vẫn có nét 
khác biệt giữa quy định của Hiệp định EVIPA so với Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam như 
sau: (1) Một là quy định về vấn đề bồi thường cho nhà đầu tư khi nhà nước tiếp nhận đầu tư 
thực hiện quyền trưng dụng tài sản của nhà đầu tư trong những trường hợp vì mục đích công 
cộng trong Hiệp định EVIPA cụ thể và chi tiết hơn Luật Đầu tư 2014, cụ thể: Trong EVIPA 
quy định rõ ràng và chi tiết là nhà đầu tư sẽ được nhận khoản bồi thường ―b ng giá trị thực 
của khoản đầu tư được bảo hộ ngay trước khi bị trưng dụng hoặc trước khi nguy cơ bị trưng 
dụng trở nên công khai, tuỳ trường hợp nào xảy ra trước, các khoản bồi thường như vậy c ng 
bao gồm cả lãi suất tính theo lãi suất thương mại thông thường cho tới ngày thanh toán. 
Khoản bồi thường như vậy được thực thi một cách hiệu quả, tự do chuyển nhượng phù hợp 
với Điều 2.8 (Chuyển nhượng)của Hiệp định và được thực hiện không chậm tr .39 Như vậy là 
38 Khoản 1 điều 2.7 về Trưng Dụng của Hiệp định EVIPA 
39 Khoản 2 điều 2.7 về Trưng Dụng của Hiệp định EVIPA 
1045 
so với Luật Đầu tư 2014 về vấn đề bồi thường thiệt hại khi tài sản của nhà đầu tư bị trưng 
dụng, Hiệp định EVIPA có đề cập một cách cụ thể, chi tiết hơn về quyền của nhà đầu tư được 
nhận thêm ―lãi suất tính theo lãi suất thương mại‖ bên cạnh khoản bồi thường mà nhà nước 
tiếp nhận đầu tư phải chi trả. Mặc dù, quy định cụ thể về trường hợp, thẩm quyền, quy trình, 
điều kiện trưng mua trưng dụng tài sản của nhà nước Việt Nam được xây dựng trong Luật 
Trưng mua, trưng dụng năm 2008 nhưng cũng không tính đến quyền nhận lãi suất cho nhà 
đầu tư như trong Hiệp định. (2) Hai là, trong Hiệp định có đề cập đến trường hợp cấp ly xăng 
cưỡng bức về quyền sở hữu trí tuệ là một trường hợp ngoại lệ của quyền trưng dụng của nhà 
nước tiếp nhận đầu tư ―Việc cấp li-xăng cưỡng bức liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ không 
tạo thành hành vi trưng dụng trong phạm vi khoản 1, mi n là việc cấp li-xăng phù hợp với 
Hiệp định các khía cạnh liên quan thương mại của quyền sở hữu trí tuệ trong Phụ lục 1C của 
Hiệp định WTO (sau đây gọi là “Hiệp định TRIPS”).40 Theo quy định này, yêu cầu nhà đầu 
tư cấp ly xăng cưỡng bức để chuyển giao quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ trong những 
trường hợp khẩn cấp hoặc vì mục đích cộng đồng, mục đích quốc gia sẽ không được coi một 
trường hợp của Trưng dụng tài sản, nghĩa là sẽ không tuân theo những quy định về điều kiện, 
quy trình mà Hiệp định đã đề cập. Cam kết này là hoàn toàn cần thiết đối với loại tài sản đặc 
thù như quyền hữu trí tuệ, bởi lẽ tài sản này được điều chỉnh theo quy định của Hiệp định 
TRIPs thuộc khuôn khổ những cam kết trong WTO để đảm bảo tính đặc trưng bản chất của 
tài sản. Hay nói cách khác, quyền sở hữu trí tuệ với những khác biệt rõ rệt với tài sản thông 
thường do đó không thể xác lập một quy chế trưng dụng của nhà nước giống như các loại tài 
sản hữu hình khác được. Điều này có thể sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền của nhà nước tiếp 
nhận đầu tư và gây thiệt hại nhất định cho nhà đầu tư bị yêu cầu cấp ly xăng cưỡng bức tài 
sản sở hữu trí tuệ. 
(ii) Về quy định đối với vấn đề chuyển tài sản của nhà đầu tư ra nước ngoài trong quá 
trình tiến hành hoạt động đầu tư, Hiệp định quy định như sau: ―Mỗi Bên phải cho phép việc 
chuyển tiền liên quan đến khoản đầu tư được bảo hộ b ng bất kỳ đồng tiền tự do chuyển đổi 
nào, mà không có hạn chế hay sự chậm tr nào và với tỉ giá thị trường hối đoái vào thời điểm 
chuyển đổi. Việc chuyển tiền bao gồm: 
(a) góp vốn, ví dụ vốn ban đầu hoặc vốn góp thêm để duy trì, phát triển hoặc tăng 
khoản đầu tư; 
(b) lợi nhuận, cổ tức, thu nhập từ vốn hoặc các nguồn thu khác từ việc bán toàn bộ 
hay một phần khoản đầu tư hoặc từ việc thanh khoản một phần hay toàn bộ khoản đầu tư; 
(c) các khoản thanh toán tiền lãi, tiền bản quyền, phí quản lý, và hỗ trợ kỹ thuật và 
các khoản phí khác; 
(d) các khoản thanh toán theo một hợp đồng do nhà đầu tư ký kết hoặc khoản đầu tư 
được bảo hộ, bao gồm các khoản thanh toán th a thuận vay; 
40 Khoản 4 điều 2.7 về Trưng Dụng của Hiệp định EVIPA 
1046 
(e) thu nhập và khoản thù lao khác của nhân sự làm việc ở nước ngoài và có liên quan 
đến khoản đầu tư; 
(f) các khoản thanh toán căn cứ vào Điều 2.6 (Bồi thường thiệt hại) và Điều 2.7 
(Trưng dụng); và 
(g) các khoản thanh toán thiệt hại căn cứ vào phán quyết theo Mục B (Giải quyết 
Tranh chấp giữa Nhà đầu tư và các Bên) của Chương 3 (Giải quyết tranh chấp)”41. Trong khi 
đó, Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam quy định ―Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối 
với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật, nhà đầu tư nước ngoài được chuyển ra 
nước ngoài các tài sản sau đây: 
1. Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư; 
2. Thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh; 
3. Tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư.‖42 
Như vậy, về vấn đề này Hiệp định đề cập đến quyền của nhà đầu tư liên quan đến vấn 
đề chuyển tiền có phạm vi rộng hơn so với quy định của Luật Đầu tư 2014. Theo đó, Hiệp 
định quy định quyền của nhà đầu tư đối với tiền thuộc sở hữu hợp pháp của họ đối một cách 
tự do định đoạt nó dưới dạng ―góp vốn, chuyển lợi nhuận, chuyển tiền thanh toán, thu nhập 
dưới dạng thù lao, thanh toán thiệt hại.‖. Trong khi đó, Luật Đầu tư năm 2014 chỉ đề cập 
đến việc chuyển lợi nhuận và tài sản của nhà đầu tư ra nước ngoài sau khi đã thực hiện xong 
nghĩa vụ tài chính với nhà nước Việt Nam. Mặc dù, về vấn đề này quy định của Luật Đầu tư 
hiện hành Việt Nam và Hiệp định có phạm vi rộng hẹp khác nhau nhưng vẫn gặp nhau ở một 
điểm đó là cùng đề cập đến quyền tự do chuyển lợi nhuận và tài sản của nhà đầu tư nước 
ngoài ra nước ngoài. 
4. Kết luận 
Tóm lại sau khi xem xét, nghiên cứu về sự tương thích giữa các quy định của Luật 
Đầu tư Việt Nam hiện hành về bảo đảm đầu tư và các cam kết của EVIPA về bảo hộ đầu tư có 
thể nhận thấy những sự tương đồng và những điểm khác biệt nhất đinh. Tuy có những nội 
dung không hoàn toàn đồng nhất giữa hai văn bản nhưng xét một cách toàn diện những điểm 
tương đồng vẫn là chủ yếu. Điều đó cho thấy kỹ năng cũng như tư duy lập pháp của Việt Nam 
trong thời kỳ hội nhập đã có những bước tiến bộ đáng kể, rõ rệt, ngày càng phù hợp với thông 
lệ quốc tế và tư duy lập pháp của của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù vậy, 
trong tương lai khi có điều kiện thích hợp, chúng ta vẫn nên có sự sửa đổi, bổ sung các quy 
định hiện hành của Việt Nam về vấn đề trên để có thể góp phần hoàn thiện một thể chế đầu tư 
để từ đó có thể tận dụng tối đa các cơ hội mà EVIPA mang lại trong quá trình tạo lập một môi 
trường đầu tư hoàn chỉnh. Cụ thể, nên bổ sung vào Luật về trưng mua, trưng dụng hiện hành 
của Việt Nam các quy định về việc tính lãi suất đối với khoản tiền bồi thường cho nhà đầu tư 
trong trường hợp tài sản của họ bị nhà nước Việt Nam tuyên bố trưng mua, trưng dụng ( có 
thể tham khảo quy định vấn đề này trong EVIPA). Ngoài ra, trong quy định về vấn đề thực 
41 Điều 2.8 Hiệp định EVIPA 
42 Điều 11 Luật Đầu tư 2014 
1047 
hiện quyền trưng mua, trưng dụng có thể bổ sung quy định về các quy trình thủ tục khác nhau 
cho các loại tài sản khác nhau của nhà đầu tư để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhà 
đầu tư được bảo vệ triệt để nhất kể cả trong bối cảnh nhằm thực hiện những lợi ích mang tính 
quốc gia công cộng. Thiết nghĩ, nếu làm được như vậy sẽ góp phần xây dựng được một thể 
chế đầu tư hoàn thiện, giúp môi trường đầu tư Việt Nam thực sự trở thành một cửa ngõ đầu tư 
phương đông ―vừa thông vừa thoáng, vừa an toàn vừa hiệu quả‖. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hiệp định EVIPA 
2. Luật Đầu tư 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành 
3. Luật Trưng mua, trưng dụng năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành 
4. Giáo trình Luật Đầu tư của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2015 
5. A.Lowenfeld(2002), International Economic Law, Oxford University Press 
6. https://baomoi.com/quoc-huu-hoa-dau-mo-argentina-gay-soc/c/8374642.epi 
7. https://m.theleader.vn/thay-gi-tu-hiep-dinh-evipa-giua-viet-nam-eu 
NGHIÊN CỨU CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẦU TƢ TRONG HIỆP ĐỊNH 
ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (CPTPP) – 
SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ VIỆT NAM 
Ths. Phùng Bích Ngọc 
Trƣờng Đại học Thƣơng mại 
Tóm lược: Việc triển khai CPTPP và EVFTA là bước đi quan trọng thúc đẩy đa dạng 
hoá thị trường, mở rộng đối tác cho Việt Nam. Trong lĩnh vực thu hút FDI43, Việt Nam sẽ có 
cơ hội đón nhận dòng vốn FDI “chất lượng cao” của các nước thành viên CPTPP như Nhật 
Bản, Canada. Quy định liên quan tới đầu tư trong CPTPP được đánh giá là có tác động lớn 
trong việc thu hút đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Do vậy, trọng tâm của 
bài viết là khái quát các quy định của CPTPP về đầu tư; đánh giá quy định về nguyên tắc đầu 
tư và cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư trong CPTPP với các quy định của pháp luật 
Việt Nam hiện hành để từ đó đưa ra một số giải pháp cho Việt Nam sao cho phù hợp với các 
quy định trong CPTPP nh m tạo ra một môi trường đầu tư được bảo đảm toàn diện. 
Từ khoá: Đầu tư kinh doanh, đầu tư trong CPTPP. 
43 Foreign Direct Investment (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) 

File đính kèm:

  • pdfsu_tuong_thich_giua_quy_dinh_phap_luat_viet_nam_hien_hanh_ve.pdf