Sự tích thần tam ranh sừng sỏ sắt đất Thiên Bản
Nước Việt Nam từ xưa dựng cơ nghiệp ở phương Nam có quốc hiện là Văn Lang từ thời các Vua Hùng. Đến đời Hùng Thuận Vương, nhà vua hiếm hoi muốn có người nối dõi, đi về miền biển, đến trang Đồng Mông huyện Bình Chương (nay thuộc xã Quang Trung huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định) thấy người con gái họ Bằng xinh đẹp hiền thục, bèn đưa về cung, lập làm vương phi. Vương phi họ Bằng chung sống với nhà Vua 13 năm mà vẫn không có con. Nhà vua và vương phi bèn lập đàn cầu xin thượng đế, cảm động đến thiên đình. Thượng đế cho tiên đồng xuống đầu thai, nhưng không ai muốn đi cả, các tiên đồng đứng túm tụm lại, Thượng đế bàn bắt xuống tất cả, quả nhiên bà Bằng mang thai, nhà vua rất mừng, chờ ngày sinh nở. Ngày 21 tháng 6 bà Bằng trở dạ, sinh ra một cái bọc to. Nhà vua sai người mở ra thì thấy hơn sáu chục đầu người chen chúc nhau trông thật là kỳ quái. Nhà vua sợ hãi vội cho quân đào hố thật sâu, đem chôn ở ngã ba đường làng. Thượng đế sai Quỷ vương xuống trông coi phần mộ không cho quấy nhiễu. Không yên tâm Thượng đế còn sai ba vị Đô Thiên Thần Tướng là Đô Hiến Đô Ty Đô Tuỳ xuống cùng quỷ vương cai quản.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự tích thần tam ranh sừng sỏ sắt đất Thiên Bản
Sự Tích Thần Tam Ranh Sừng Sỏ Sắt đất Thiên Bản Thần Tam Ranh? Nước Việt Nam từ xưa dựng cơ nghiệp ở phương Nam có quốc hiện là Văn Lang từ thời các Vua Hùng. Đến đời Hùng Thuận Vương, nhà vua hiếm hoi muốn có người nối dõi, đi về miền biển, đến trang Đồng Mông huyện Bình Chương (nay thuộc xã Quang Trung huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định) thấy người con gái họ Bằng xinh đẹp hiền thục, bèn đưa về cung, lập làm vương phi. Vương phi họ Bằng chung sống với nhà Vua 13 năm mà vẫn không có con. Nhà vua và vương phi bèn lập đàn cầu xin thượng đế, cảm động đến thiên đình. Thượng đế cho tiên đồng xuống đầu thai, nhưng không ai muốn đi cả, các tiên đồng đứng túm tụm lại, Thượng đế bàn bắt xuống tất cả, quả nhiên bà Bằng mang thai, nhà vua rất mừng, chờ ngày sinh nở. Ngày 21 tháng 6 bà Bằng trở dạ, sinh ra một cái bọc to. Nhà vua sai người mở ra thì thấy hơn sáu chục đầu người chen chúc nhau trông thật là kỳ quái. Nhà vua sợ hãi vội cho quân đào hố thật sâu, đem chôn ở ngã ba đường làng. Thượng đế sai Quỷ vương xuống trông coi phần mộ không cho quấy nhiễu. Không yên tâm Thượng đế còn sai ba vị Đô Thiên Thần Tướng là Đô Hiến Đô Ty Đô Tuỳ xuống cùng quỷ vương cai quản. Ba vị Đô thiên Thần Tướng hàng ngày thấy Thuận vương và Bằng Phi rầu rĩ động lòng thương bèn về trời tâu lại với Thượng đế. Ngọc Hoàng thấy lấy người ở thiên đình không được, thì chọn người ở trần gian hết hạn được đầu thai trở lại để hiện nhập vào Bằng phi. Nam Tào Bắc Đẩu chọn một người họ Đỗ tên là Kiều hiện nhập vào để sau kế vị làm vua, trị vì thiên hạ. Lại chọn người họ Vị tên là Cư trong xã hiện nhập vào sau làm quan văn để tham mưu giúp vua trị nước. Lại chọn thêm một người họ Trương tên là Chất cùng xã hiện nhập vào sau làm quan võ để lắm giữ binh quyền đánh giặc, giữ nước. Ba vị đó gọi là Tam Bành, sau này dọc ngang trời đất, có nhiều quyền lực để trị dân trị nước. Quả nhiên ít lâu sau, Bằng phi lại có mang, năm sau vào ngày 10 tháng ba, bà trở dạ, sinh ngay trong bếp (nơi ở của Táo quân) một cái bọc, mở ra thấy ba đứa bé thật kỳ dị. đứa thứ nhất không có mặt, đứa thứ hai không có tay, đứa thứ ba không có chỏm đầu. Thuận Vương thấy ba đứa con đều đã chết, biết rằng vận nhà Hùng sắp hết, vừa sợ vừa thương, vội đem người đem chôn ba vị ở ba cáí giếng sâu để không còn vết tích. Vị thứ nhất chôn ở giếng giữa Đồng Mông. Vị thứ hai chôn ở giếng gần trang Đắc Thắng (nay là Đắc Lực, xã Liên Bảo). Còn vị thứ ba thì chôn ở giếng trên cánh đồng Cao làng Vân Cát (nay là xã Kim Thái). Được 100 ngày, ba vị biến hóa kỳ dị, đêm đêm trời mưa phùn thường biến thành những quả cầu lửa bay lượn trên không trung, gặp nhau chụm lại rồi biến mất, dân sợ quá cho là linh dị, thường gọi đó là Tam Ranh (Ba vị thần trẻ). Dân lập đền thờ cạnh ba cái giếng. Tam Bành? Vị thứ nhất tuy không có mặt nhưng có đôi chân nhanh nhẹn, trên hai bắp chân có viết chữ “tứ tung” và “ngũ hoành” nên ngài cùng hai em dọc ngang trời đất không nơi đâu là không có dấu chân. Ba vị biến hoá khôn lường, thường làm những chuyện kỳ lạ. Thuận Vương thấy không thể kìm chế nổi, bèn ngự giá xuống làng Đồng Mông để thuyết phục các con, nói rõ là các con được thượng đế sai xuống trần gian để giúp đỡ chúng sinh, không nên làm điều gì ngỗ ngược. Thuận Vương cũng nói rõ với các con là Thượng đế đặt tên các con là Sừng Sỏ Sắt nên phong tước cho các con là: Nguyên Sừng Quận công Đỗ Phan tướng quân Nguyên Sỏ Quận công Vị Thể tướng quân Nguyên Sắt Quận công Trương Thỉ tướng quân Nhà vua lại phong các vị là Tam Thế Độ, cho làm tướng chỉ huy các cô hồn trong cõi âm, giúp đỡ dân lành, làm điều thiện, chống lại ma tà quỷ dữ. Nhà Vua cho người sửa lại đền Đồng Mông, thờ chính ba vị ở đó để dân làng hàng năm vào kỳ tuần tiết, rằm tháng giêng, rằm tháng bẩy và ngày mùng 10 tháng ba phải làm lễ cúng thần như cúng cô hồn, phải soạn lễ vật cúng thần, không được quên mâm cháo, mâm bỏng rang và hoa quả. Vua lại phong ba vị Tam Ranh đại tướng âm binh, cho làm đương cảnh Thành Hoàng làng Đồng Mông. Ba vị quận công Sừng Sỏ Sắt tượng chưng cho sự cương nghị, cứng rắn không hề sợ hãi thế lực nào cả. Từ đó ba vị tung hoành, làm nhiều điều kinh dị, ai cũng cho là linh thiêng. Thành hoàng các làng đều nể sợ. Thành hoàng làng nào không lo phù hộ cho dân yên ổn làm ăn, trái lại còn sách nhiễu dân chúng, bắt cúng nhiều lễ vật, thường bị ba vị đánh đuổi. nhiều làng thấy bát hương trong đình làng bị úp sấp hoặc đổ lăn lóc thì biết đó là thành hoàng bị đánh đuổi. Thành hoàng các làng lo sợ vội kéo nhau lên thiên đình kêu kiện. Ngọc Hoang phải triệu Tam Ranh thần tướng về trời phán xử. Ngọc Hoàng truyền từ nay các vị Thành Hoàng không được sách nhiễu dân chúng, đồng thời nói roc Tam Ranh thần tướng là Tam Bành giúp Ngọc Hoàng trừ khử bọn thần quỷ dữ quấy nhiễu dân chúng. Nhưng Ngọc Hoàng cũng khuyên Tam Bành không được nổi giận làm điều ngỗ ngược, phải chịu sự kiềm chế của Đức Phật Như Lai và Quan Thế Âm Bồ Tát, đồng thời phải chịu sự dậy dỗ của Quỷ Cốc tiên sinh, Đô Đàn giáo chủ. Tam Bành vâng lệnh về hạ giới Khi về tới Đồng Mông, Tam Bành nhập đồng vào một người gặt lúa đang cùng nhân dân ngồi nghỉ trên đó, gọi tiên chỉ ra bắt lập chùa. Làng yêu cầu nếu đúng như vậy phải có thánh tử thể hiện sự linh ứng. Người thợ gặt bỗng cắm đúng đòn sóc xuống đất, lấy mâm đồng trong đền đặt lên trên mũi đòn sóc rồi nhẩy lên ngồi ngay ngắn xếp tròn trên mâm đồng, gọi tiên chỉ lấy giấy viết tên thần hiện sai đem đốt, tàn tự nhỉên bay vào bát hương. Lúc đó dân làng mới tin là thật, nên tập chung làm thêm cung trong ở đền Đồng Mông để thờ Phật. Bên cạnh đền có cây Bòng Bong ngày càng lớn lên và cũng từ đó dân làng gọi là Chùa Bòng Bong, tiền Thần hậu Phật. Và cũng từ đó ở đền Đồng Mông tức chùa Bòng Bong, hàng năm tế thần Tam Ranh, văn tế đều khấn tế thần Tam Ranh cũng là Đương Cảnh Thành Hoàng, lại tế cả đức Phật Tổ Như Lai và Quan Thế Âm Bồ Tát cùng với Quỷ Cóc tiên sinh Đô đàn giáo chủ. 3. Tam Ranh Thần tướng hiển linh giúp nước giúp dân Đền Đồng Mông thờ thần Tam Ranh đại tướng âm binh, nên các tướng lĩnh thường cầu xin ngài đem âm binh trợ giúp mỗi khi các tướng xuất binh chống giặp ngoại dã. Thần đã huy đông vô số âm binh âm phủ đánh giặc. Khi trở về các tướng đều tâu xin nhà vua ban sắc phong. Nhiều triều đại ban sắc phong “Đương Cảnh Thành Hoàng, bảo hộ quảng thi, bác huệ đông ngưng dực bảo trung hưng bản thổ tôn thần Tam Ranh đại tướng cô hồn hộ quốc tỵ dân nẫm trữ linh ứng tinh hậu trung đẳng thần”. Tương truyền ở đình làng Giáp Nhất, Bảo Ngũ (Quang Trung) thờ nữ tướng của Bà Trưng là Giám Sát nguyên soái Đào thị Quý làm thành hoàng, có một cây quế rất quý, người phương Bắc muốn mua về nước nhưng dân làng không chịu bán họ trả thù bằng cách yểm phép, làm cho thành hoàng phải xuất ngoại. Thành hoàng Giáp Nhất Bảo Ngũ phải cầu cứu đến thần Tam Ranh phá yểm mới trở về được đình. Từ đó sắc phong của đền Đồng Mông thờ Tam Ranh thần tướng đều để lại đền Giáp nhất, Thành hoàng phải giữ. Đên ngày 10 tháng ba, khi tế thần Tam Ranh, mới rước sắc ra đền Đồng Mông. Việc thờ cúng, tế lễ ở đây không có cung văn và đàn sáo hát văn nhưng có đảo đồng, có bài sớ cúng. Lễ vật rất đơn giản, chỉ có trầu cau, muối gạo, hương hoa và cháo hoa, bỏng rang. Trong làng Đồng Mông có một số thầy cúng, thường cha truyền con nối. Khi có việc phải cầu cúng ở đền, như cầu xin trị ma tà, cầu cin được thần chữa bệnhngười dân tự chọn thầy cúng làm sớ ngồi đồng để cầu khấn chịu lễ. Thầy cúng phải ngồi ba giá đồng liên tiếp. Giá thứ nhất là thần thứ nhất là Nguyên Sừng quận công Đỗ Phan tướng quân nhập đồng, phán hỏi ngưòi đến kêu xin việc gì, tình huống sảy ra hay bệnh tật như thế nào. Ngài xác định phương hướng tìm kiếm hoặc chữa bệnh rồi ra lệnh cho mời vị thần thứ hai tìm cách thức trị liệu. Giá đông thứ hai thì vị thần thứ hai là Nguyên Sở quận công Vị Thế tướng quân nhập đồng, phán báo đích danh ma tà hoặc tên bệnh mà người mắc bệnh mắc phải rồi chỉ bảo phương cách trị ma tà hoặc cho thần đơn kể tên các vị thuốc cầm tìm để trị bệnh, nhất là những bệnh về trẻ em. Giá đồng thứ ba là vị thần thứ ba là Nguyên Sắt Quận công Trương Thỉ tướng quân nhập đồng, phán chỉ nơi có cây thuốc và cách chữa trị bệnh cụ thể hoặc cách trị ma tà. Những cây thuốc phần nhiều có ở cánh đồng làng hoặc nhiều nhà trồng sẵn, thườn được thầy nói rõ, tìm đến nơi là có. Qua việc đảo đồng, người nhà cứ theo lời phán mà làm, kết hợp nước cúng làm thang. Lễ vật cúng thần xin trừ ma tà cũng đơn giản, phần lớn chỉ hoa quả, hương nước, được thầy làm phép, ban cho lá bùa về dán ở nhà, thườn dùng cho trẻ con hay quấy khóc. Dân Bảo ngũ và các làng xung quanh còn lưu truyền câu chuyện thần Tam Ranh hiển linh. Thường vào những đêm tối trời, nhất là những đêm trời mưa phùn lâm thâm, tù ba giếng phần mộ ba vị xuất hiện ba qủa bóng sáng lừ lừ bay lên, vật vờ đi lại toả ra về chỗ cũ, biến mất. Ba quả bóng đó phát sáng như đèn, nhưng có bóng mầu hồng, mầu vàng rực và bóng mầu tím nhạt. Có người còn nói các vị thần rút kiếm giơ lên toả sáng thành những bó đuốc rực rỡ, chân các vị như chân cò có lúc cong queo lướt theo làn gió như sợi chỉ, lúc hợp lúc tan, các vị bay là là trên cánh đồng tối âm u, khi gặp người lỡ độ đường hay cần kíp buộc phải đi đêm trên quãng đườn Đồng Mông, thường gặp ba vị sáng rực như ba bó đuốc dẫn đường, không làm hại ai bào giờ. 4. Vì sao các chùa có Hàn Lâm Sở Tam Ranh đại tướng âm binh chỉ huy các cô hồn, nên bên cạnh đền thờ Tam Ranh tức chùa Bòng Bong có lập một miếu cô hồn, thường gọi là Hàn Lâm Sở. Hàn Lâm Sở là nơi rừng lạnh, nơi lạnh lẽo của những cô hồn sống bơ vơ cô độc tập chung về đây, thường được dân làng thờ cúng cùng với thần Tam Ranh. Từ đó các chùa đều có miếu cô hồn bên cạnh thường gọi là Hàn Lâm miếu hay Hàn Lâm Sở thể hiện một tâm thức cộng đồng của quần chúng, có tính thiện lương. họ quan tâm đến những cô hồn lạc lõng, những linh hồn chết bơ vơ không ai thờ cúng để nhắc nhở nhau quan tâm đến những người nghèo khổ, tàn phế bệnh hoạn, đơn chiếc cô quạnh đang sống trong xã hội thực tại.
File đính kèm:
- su_tich_than_tam_ranh_sung_so_sat_dat_thien_ban.docx