Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính

Việt Nam là một xã hội đang biến đổi. Sự biến đổi xã hội

thường được nhìn qua hai cấp độ đó là cấp độ vĩ mô và cấp độ vi

mô. Ở cấp độ vĩ mô, sự biến đổi xã hội được nhìn nhận như là sự

thay đổi trong cấu trúc xã hội nói chung, trong khi đó ở cấp độ vi

mô, biến đổi xã hội được phân tích thông qua những thay đổi

trong lối sống, lối ứng xử của các cá nhân trong xã hội. Bài viết

này đề cập đến sự biến đổi xã hội Việt Nam ở cấp độ vi mô bằng

cách mô tả một số nét ứng xử của cá nhân trong xã hội Việt Nam

đương đại qua hai hiện tượng là bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng

tính. Bài viết như một gợi mở về hướng phân tích xã hội học vi

mô về sự biến đổi xã hội dựa trên việc phân tích tài liệu sẵn có

chứ không phải là một nghiên cứu thực địa hay khảo sát.

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 1

Trang 1

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 2

Trang 2

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 3

Trang 3

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 4

Trang 4

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 5

Trang 5

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 6

Trang 6

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 7

Trang 7

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 8

Trang 8

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 2000
Bạn đang xem tài liệu "Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính

Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính
 sống 
một mình với con. 
Trong bài viết này, chúng tôi hiểu “bà mẹ đơn thân” là những “bà mẹ đơn thân chủ 
động” (active single mother), những bà mẹ đơn thân từ đầu tức là họ chủ động mang thai, sinh 
con và tự nuôi dưỡng con mà không kết hôn với đối tượng quan hệ, hoặc chủ động mang thai 
và sinh con bằng việc thụ tinh nhân tạo và không nói đến những “bà mẹ đơn thân thụ động” 
(passive single mother) tức là những phụ nữ làm mẹ đơn thân ngoài ý muốn chẳng hạn như 
những người bị người bị bạn trai bỏ rơi khi mang thai khiến họ phải trở thành người mẹ đơn 
thân, những người làm mẹ đơn thân vì bị hiếp dâm, chồng qua đời hoặc bị chồng bỏ rơi. 
Hiện nay chưa có con số thống kê chính thức về số lượng “bà mẹ đơn thân” tại Việt 
Nam nhưng có thể nói lối sống đang là một trong những “lựa chọn” của nhiều phụ nữ, đặc biệt 
là nơi giới phụ nữ có trình độ học vấn cao và thành đạt trong nghề nghiệp. Sở dĩ nói như thế là 
bởi theo số liệu cuộc Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du 
lịch, Tổng cục Thống kê, UNICEF và Viện Gia đình và Giới thực hiện, tỷ lệ chọn lối sống độc 
thân là 2,5% mà trong đó, nữ giới chiếm đa số với 87,6% tổng số người độc thân, tỷ lệ gia đình 
đơn thân (chỉ có cha hoặc mẹ sống với con) là 11,17%. (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, 
Tổng cục Thống kê, UNICEF, & Viện Gia đình và Giới, 2008, p. 22). 
Tại Việt Nam trong thời gian qua đã có một số nghiên cứu về hiện tượng bà mẹ đơn 
thân nhưng các nghiên cứu này chưa phân tích hiện tượng bà mẹ đơn thân như một hiện tượng 
của sự biến đổi xã hội mà chủ yếu là đề cập đến cuộc sống, những khó khan - thuận lợi của việc 
làm mẹ đơn thân mà thôi. Chẳng hạn nghiên cứu của Chu (2013) đã đề cập đến phụ nữ đơn 
thân ở vùng trung du miền núi phía bắc, đề tài có cái nhìn tổng hợp, khách quan và toàn diện 
về những vấn đề khó khăn, những nhu cầu của những phụ nữ đơn thân nuôi con; mở ra hướng 
tiếp cận mới trong hoạt động trợ giúp cho phụ nữ đơn thân nuôi con dưới góc độ của những 
người làm công tác xã hội (Chu, 2013, pp. 91-97). Vo (2016) thì đặt trọng tâm vào việc mô tả 
60 Lê Minh Tiến. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 56-64 
chân dung xã hội và thực tiễn sinh kế của các phụ nữ đơn thân tại Việt Nam trong bối cảnh 
chuyển đổi (Vo, 2016, pp. 37-44). H. B. T. Nguyen (2020) thì tìm hiểu những đặc điểm xã hội 
của nhóm bà mẹ đơn thân, thực trạng đời sống về vật chất, tinh thần của bà mẹ là công nhân tại 
các khu công nghiệp Sóng Thần (Bình Dương), phân tích những thuận lợi, khó khăn và chỉ ra 
các yếu tố chi phối đời sống vật chất, tinh thần của các bà mẹ đơn thân. 
Nhìn dưới góc độ biến đổi xã hội, việc chọn lựa lối làm mẹ đơn thân chủ động ngay từ 
đầu cho thấy một sự biến đổi về giá trị rất lớn trong xã hội Việt Nam đương đại, vì sự chọn lựa 
này cho thấy con người đã vượt qua những chuẩn mực của xã hội truyền thống để ứng xử theo 
các chuẩn mực và giá trị của cá nhân. Nếu trong xã hội truyền thống, việc người phụ nữ “không 
chồng mà có con” phải chịu đựng sự trừng phạt nặng nề từ luật lệ cũng như cộng đồng bởi đã 
phạm vào một trong bảy trọng tội (thất xuất). Nhưng hiện nay số người hướng tới cuộc sống 
độc thân ngày càng nhiều. Khi không tìm thấy niềm hạnh phúc thực sự từ cuộc sống gia đình, 
có thể tự bảo đảm cho cuộc sống riêng của cá nhân, nhiều người đã không muốn lập gia đình. 
Không ít bạn trẻ hiện nay nghĩ rằng hôn nhân không phải là cái đích duy nhất và cuối cùng của 
tình yêu. Có những tình yêu mãi mãi không có đám cưới, không có hôn thú. Đối với nhiều 
người, gia đình không phải là bến đỗ cuối cùng và duy nhất (Nghiem, 2014; T. T. V. Nguyen, 
2015, p. 49). 
Đối với vấn đề hôn nhân đồng tính ở Việt Nam hiện nay cũng vậy, từ việc xem hôn 
nhân đồng tính là điều lệch lạc, phi tự nhiên thậm chí là bệnh hoạn thì hiện nay, xã hội Việt 
Nam đã có cái nhìn cởi mở hơn đối với kiểu hôn nhân giữa hai người cùng giới tính. Sự cởi mở 
này trước hết thể hiện ở qui định của luật pháp. Trước đây, Luật Hôn nhân và Gia đình Việt 
Nam năm 2000 cấm việc kết hôn giữa hai người đồng giới thì trong Luật mới công bố năm 
2014, không còn quy định cấm hôn nhân giữa hai người cùng giới tính nhưng cuộc hôn nhân 
này chưa được công nhận về mặt luật pháp. Như vậy từ việc cấm và kèm theo hình phạt, luật 
pháp Việt Nam đã có sự thay đổi dù dè dặt đó là vẫn cho phép những người cùng giới sống 
chung như vợ chồng nhưng không công nhận. 
Dù còn dè dặt về mặt luật pháp, nhưng về mặt xã hội, việc chấp nhận hôn nhân giữa 
những người cùng giới tính có vẻ là rộng rãi hơn. Điều này thể hiện qua cuộc nghiên cứu do 
Viện Xã hội học, Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE) và Viện Chiến lược 
và Chính sách y tế phối hợp thực hiện vào năm 2013 mà theo đó, có 33,7% số người được hỏi 
cho biết họ “ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới trong khi tỷ lệ không ủng hộ là 
52,9% (xem Bảng 1). 
Bảng 1 
Thái độ của người dân về việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới 
Thái độ Tỷ lệ % 
Ủng hộ 33,7 
Lưỡng lự 8,6 
Không quan tâm 2,2 
Không ủng hộ 52,9 
Không biết/không trả lời 2,6 
 Lê Minh Tiến. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 56-64 61 
Thái độ Tỷ lệ % 
Tổng 
(N) 
100,0 
(5,303) 
Nguồn: Viện Xã hội học, ISEE, Viện Chiến lược và Chính sách y tế (2013, p. 44) 
Như vậy, từ cái nhìn kỳ thị thì người dân trong xã hội Việt Nam hiện nay đang dần có 
cái nhìn cởi mở hơn về hôn nhân giữa những người cùng giới và điều này cũng là một chỉ báo 
cho thấy sự thay đổi về mặt chuẩn mực và giá trị trong xã hội Việt Nam hiện nay. 
5. Yếu tố tạo sự thay đổi về chuẩn mực, giá trị 
Có thể nói, qua một số hiện tượng như vừa nêu trên có thể thấy xã hội Việt Nam đang 
có những thay đổi theo hướng những giá trị, chuẩn mực truyền thống đang dần bị thay thế bởi 
các giá trị mang tính cá nhân nhiều hơn. Chủ nghĩa cá nhân thường đi kèm với quá trình hiện 
đại hóa xã hội, bởi khi bước vào quá trình hiện đại hóa, sức mạnh từ tập thể, từ cộng đồng dần 
dần đánh mất hiệu lực đối với những hành động, suy nghĩ và ứng xử của cá nhân và từ đó làm 
hình thành nên lối sống duy cá nhân hơn là duy tập thể như trong bối cảnh truyền thống. 
Tuy nhiên, chủ nghĩa cá nhân ở Việt Nam có lẽ là khác với chủ nghĩa cá nhân ở Tây 
Phương. Quả vậy, ở Tây Phương, chủ nghĩa cá nhân có cội nguồn từ những cơ sở triết học từ 
thời kỳ Khai sáng và những phong trào xã hội mà điển hình là phong trào nữ quyền (feminism). 
Trái lại, chủ nghĩa cá nhân ở Việt Nam có thể chỉ là kết quả của quá trình “Tây phương hóa” 
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và “giới tinh hoa biểu tượng” (symbolic 
elite). 
Hiểu theo nghĩa của Wilfredo Pareto, giới tinh hoa là những người có những phẩm chất, 
những thành tựu ngoại hạng, là những người khác với số đông còn lại trong lĩnh vực hoạt động 
của họ (Welty, 2016). Và Pareto cũng phân thành hai loại giới tinh hoa đó là giới tinh hoa chính 
phủ và giới tinh hoa không thuộc chính phủ. Ở đây chúng tôi cho rằng sự biến đổi giá trị của 
xã hội Việt Nam đương đại đến từ tầng lớp tinh hoa không thuộc chính phủ mà chúng tôi gọi 
là “giới tinh hoa biểu tượng” mà cụ thể là giới văn nghệ sĩ, những người trong lĩnh vực thời 
trang mà ở Việt Nam được gọi chung là “giới showbiz” vốn có ảnh hưởng rất lớn đến giới trẻ 
(Rocher, ibid, 139-140). 
Quả vậy, giới nghệ sĩ, đặc biệt là giới ca sĩ và giới người mẫu thời trang có một ảnh 
hưởng rất lớn đến giới trẻ Việt Nam và chính họ là những biểu tượng (symbol) của giới trẻ và 
nhiều người khác trong xã hội. Gần như chính họ là những người đại diện, những người truyền 
tải, biện hộ những giá trị “phi truyền thống”, những giá trị mang tính “cá nhân chủ nghĩa” đến 
với giới trẻ trong xã hội Việt Nam. Chúng ta có thể xem người đầu tiên “chính thức hóa” lối 
sống “bà mẹ đơn thân chủ động” ở Việt Nam là nữ ca sĩ Phương Thanh khi cô sinh con vào 
năm 2004 và cho đến nay vẫn không tiết lộ người cha của đứa con của mình là ai. Sau đó đến 
lượt nữ ca sĩ Thái Thùy Linh, nhà thiết kế thời trang Ngô Thái Uyên, nữ ca sĩ Hiền Thục, Vân 
Hugo và gần đây là nhiều nữ ca sĩ trẻ khác cũng tiếp bước trào lưu này. 
Bên cạnh việc chọn lối sống bà mẹ đơn thân chủ động, đa số những người trong giới 
showbiz Việt cũng ủng hộ mạnh mẽ cho kiểu hôn nhân đồng tính thông qua những hình ảnh 
62 Lê Minh Tiến. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 56-64 
vui mừng của họ khi nước Mỹ chính thức hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Các chương trình 
truyền hình Việt Nam hiện nay cũng càng ngày càng xuất hiện nhiều những cặp đôi đồng tính 
như là một chỉ dấu cho sự bình thường hóa của loại hôn nhân này. 
Như vậy có thể nói những giá trị mang tính cá nhân chủ nghĩa ở Việt Nam không phải 
xuất phát từ một quá trình phản tư (reflexibility) dai dẳng mang tính triết học mà hình như đến 
từ ảnh hưởng của giới tinh hoa biểu tượng thông qua công cụ là các phương tiện truyền thông 
đại chúng. Hiệu ứng “bắt chước” có thể là căn nguyên của sự thay đổi hệ giá trị tại Việt Nam 
hơn là kết quả của quá trình lý tính hóa (rationalisation) của xã hội vốn là điều mà Max Weber 
xem như là đặc trưng của các xã hội hiện đại Tây phương (Fleury, 2016). 
Theo chúng tôi, hệ giá trị truyền thống của Việt Nam sẽ tiếp tục bị thay thế bằng những 
giá trị mới cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện 
đại trong tương lai cùng với sự vượt lên của chủ nghĩa cá nhân (individualism) khiến cho những 
giá trị tập thể, những chuẩn mực xã hội truyền thống không còn tác dụng chi phối mạnh mẽ đến 
suy nghĩ cũng như ứng xử của cá nhân mà thay vào đó, cá nhân dám chọn lựa sống theo những 
giá trị và lợi ích của bản thân (Mannis, 1999, p. 124). Điều này có thể được xem như là những 
biểu hiện sự biến đổi xã hội ở cấp độ vi mô, tức là sự thay đổi về nhận thức, thái độ, hành vi 
nơi các cá nhân cũng như nơi các nhóm nhỏ trong xã hội. 
6. Kết luận 
Kể từ khi đất nước bước vào con đường đổi mới từ năm 1986 đến nay, xã hội Việt Nam 
đã và đang có những sự biến đổi sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Do đó việc phân tích sự biến đổi 
xã hội cần được thực hiện trên nhiều cấp độ phân tích khác nhau để có thể hiểu rõ hơn và đầy 
đủ hơn tính chất phức tạp, sự đa dạng và đa chiều kích của sự biến đổi xã hội ở Việt Nam để có 
thể có những dự báo đúng hơn trong tương lai. 
Đóng góp của lối tiếp cận xã hội học về sự biến đổi xã hội đó là, bên cạnh việc phân 
tích những sự biến đổi ở cấp độ vĩ mô như biến đổi trong cơ cấu kinh tế, biến đổi trong cơ cấu 
xã hội hay văn hóa, v.v.v thì nó còn phân tích thêm những biến đổi xã hội ở cấp độ vi mô nữa. 
Biến đổi xã hội ở cấp độ vi mô cho thấy những thay đổi trong quan niệm sống, thế giới quan 
cũng như nhân sinh quan của các cá nhân trong xã hội. Nhìn ở cấp độ vi mô, xã hội Việt Nam 
hiện nay đang là một xã hội đang biến đổi mà bài viết này là một khám phá mang tính gợi mở 
bước đầu cho những nghiên cứu thực nghiệm sâu hơn trong tương lai. 
Tài liệu tham khảo 
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, UNICEF, & Viện Gia đình và Giới. 
(2008). Kết quả điều tra gia đình Việt Nam 2006 [Results of the Vietnam Family Survey 
2006]. Retrieved March 20, 2020, from https://tailieu.vn/doc/ket-qua-dieu-tra-gia-dinh-
viet-nam-nam-2006-1468094.html 
Chu, T. T. T. (2013). Thực trạng công tác hỗ trợ phụ nữ đơn thân phát triển kinh tế hộ gia đình 
tại xã Bá Xuyên thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên [Situation of work to support single 
women in household economic development in Ba Xuyen commune, Song Cong town, 
Thai Nguyen province]. Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 112(12), 91-97. 
 Lê Minh Tiến. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 56-64 63 
Fleury, L. (2016). Tư tưởng Max Weber [Thought Max Weber] (T. M. Le, Trans.). Ho Chi 
Minh, Vietnam: NXB Hồng Đức - Đại học Hoa Sen. 
Gucciardi, E., Celasun, N., & Stewart, D. (2004). Single-mother families in Canada. Canadian 
Journal of Public Health/Revue Canadienne De Santé Publique, 95(1), 70-73. 
Hoang, C. B. (2008). Biến đổi xã hội Việt Nam qua hơn 20 đổi mới [Transforming Vietnamese 
society through more than 20 innovations]. Paper presented at Hội thảo Quốc tế về Việt 
Nam học lần III, Vietnam National University, Hanoi, Vietnam. 
Le, N. H. (2010). Các cấp độ và xu hướng biến đổi xã hội ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ góc 
độ xã hội học [The levels and trends of social change in Vietnam today: From a 
sociological perspective]. Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, 4, 6-10. 
Mannis, V. (1999). Single mothers by choice. Family Relations, 48(2), 121-128. 
doi:10.2307/585075 
Nguyen, C. D. (2017). Lục Vân Tiên. Ho Chi Minh, Vietnam: NXB Văn Học. 
Nghiem, T. N. (2014). Một số biến đổi của văn hóa gia đình Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu 
hóa [Some changes of Vietnamese family culture in the globalization context]. Retrieved 
March 11, 2020, from Tạp chí Cộng sản website: 
 hien-tai/-/2018/30265/mot-so-bien-doi-
cua-van-hoa-gia-dinh-viet-nam-trong-boi-canh toan-cau-hoa.aspx 
Nguyen, D. M. (2014). Một số biến động trong hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay [Some 
changes in marriage and family in Vietnam today]. Retrieved March 12, 2020, from 
 va-gia-dinh-- -
viet-nam-hien-nay*.html 
Nguyen, H. B. T. (2020). Cuộc sống của những bà mẹ đơn thân ở các khu công nghiệp nhìn từ 
góc độ chính sách xã hội [The life of single mothers in industrial zones from a social 
policy perspective]. (Unpublished doctoral dissertation). Học viện Khoa học Xã hội, 
Hanoi, Vietnam. 
Nguyen, T. T. V. (2015). Hiện tượng ‘người mẹ đơn thân’ ở Hàn Quốc và liên hệ với Việt Nam 
từ góc nhìn chính sách xã hội [The phenomenon of 'single mother' in Korea and contacting 
with Vietnam from a social policy perspective]. Tạp chí Nghiên cứu con người, 3(78), 
45-51. 
Rocher, G. (1968). Introduction à la sociologie. 3. Le Changement social [Introduction to 
sociology. 3. Social change]. Paris, France: Seuil. 
Trinh, H. B. (2007). Về sự biến đổi của khuôn mẫu gia đình Việt Nam hiện đại [About the 
transformation of the modern Vietnamese family pattern]. Retrieved March 13, 2020, 
from Thông tin pháp luật dân sự website: 
mau-gia dinh-viet-nam-hien-dai.html 
Viện Xã hội học, ISEE, & Viện Chiến lược và Chính sách y tế. (2013). Kết quả trưng cầu ý 
kiến người dân về hôn nhân đồng giới [Results of referendum on same-sex marriage]. 
Retrieved March 15, 2020, from  416/ket-qua-
trung-cau-y-kien-nguoi-dan-ve-hon-nhan-cung-gioi-2013.pdf 
64 Lê Minh Tiến. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(1), 56-64 
Vo, T. C. (2016). Từ nghiên cứu về sinh kế đến những vấn đề đặt ra đối với nghiên cứu sinh kế 
của phụ nữ làm mẹ đơn thân ở Việt Nam [From livelihood research to the issues posed to 
research on livelihoods of single mothers in Vietnam]. Tạp chí Thông tin Khoa học Xã 
hội, 3(399), 37-44. 
Welty, G. (2016). Pareto’s theory of elites: Circulation or circularity? Mundo Siglo XXI, 38(21), 
49-58. 

File đính kèm:

  • pdfsu_bien_doi_xa_hoi_tu_goc_nhin_xa_hoi_hoc_vi_mo_qua_hai_hien.pdf