Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng

Tóm tắt

Trước khi đến với chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí

Minh đã từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương Đông qua

thuyết đại đồng với các mệnh đề thiên hạ vi công, dân vi quý, của Nho giáo.

Trong quá trình tiếp thu Nho giáo, Người đã cải biến nhiều khái niệm của Nho

giáo, làm cho những khái niệm ấy chứa đựng một nội dung mới trong hình thức

cũ. Vì thế, tư tưởng Mácxít - Lêninnít của Người có sắc thái độc đáo, tư tưởng đó

được xây dựng và phát triển trên cơ sở những truyền thống tốt đẹp nhất của dân

tộc Việt Nam, mà trong đó, Nho giáo chiếm vị trí không nhỏ. Do đó, trong phong

cách và tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều yếu tố của Nho giáo, mà chính những yếu

tố Nho giáo ấy dung hòa nhuần nhuyễn với những truyền thống tốt đẹp của dân

tộc đã tạo nên con người Mácxít - Lêninnít vĩ đại được cả thế giới ngưỡng mộ. Bài

viết phân tích, chỉ ra sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ về xã hội lý tưởng đối với

tư tưởng Hồ Chí Minh ở các khía cạnh như mô hình xã hội lý tưởng, những phẩm

chất đạo đức của người cầm quyền.

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 1

Trang 1

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 2

Trang 2

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 3

Trang 3

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 4

Trang 4

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 5

Trang 5

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 6

Trang 6

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 7

Trang 7

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 9060
Bạn đang xem tài liệu "Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng

Sự ảnh hưởng của Nho giáo sơ kỳ đối với tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội lý tưởng
 chi) mà không bao giờ biết mệt mỏi (Vô quyện)6. Hồ Chí 
Minh cho rằng, “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trƣớc hết cần có những con ngƣời 
xã hội chủ nghĩa”7. Mẫu ngƣời lý tƣởng mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng là mẫu ngƣời 
vừa có đức, vừa có tài (vừa hồng vừa chuyên). Khổng Tử và các nhà sáng lập Nho giáo 
sơ kỳ lấy mẫu hình lý tƣởng ngƣời xƣa, các ông luôn khen Nghiêu, Thuấn, phục Chu 
Công, coi đó là những khuôn mẫu cho mọi ngƣời noi theo. Nhƣng đó là những mẫu 
ngƣời quá lý tƣởng, khó ai có thể với tới đƣợc và không phù hợp với hiện thực xã hội 
đƣơng thời. Hồ Chí Minh xây dựng mẫu ngƣời vừa hồng, vừa chuyên trên cơ sở của 
hiện thực xã hội, xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể của cách mạng, phù hợp với tính tất yếu 
lịch sử của nhân loại trên con đƣờng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cũng giống nhƣ các 
nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ, Hồ Chí Minh cũng cho rằng, đạo đức giữ vai trò nền tảng 
trong xây dựng mẫu ngƣời lý tƣởng, đạo đức là gốc của con ngƣời, nhất là ngƣời cách 
mạng, ngƣời cán bộ. Một mặt, ngƣời khẳng định: “Ngƣời cách mạng phải có đạo đức, 
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân”8. “Có tài mà 
5 Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà 
Nội, tr.592. 
6 Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà 
Nội, tr.496. 
7 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.310. 
8 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.253. 
|250 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
không có đức là hỏng” và “Đức phải có trƣớc tài”9. Mặt khác, Ngƣời cũng nhấn mạnh 
vai trò quan trọng của trí tuệ, năng lực để thực thi công việc có hiệu quả. Ngƣời cho 
rằng có đức mà không có tài nhƣ ông bụt ngồi trong chùa, không giúp gì đƣợc cho ai. 
Trong bài Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, Ngƣời nhấn mạnh rằng, 
con ngƣời xã hội chủ nghĩa là ngƣời có ý thức làm chủ nhà nƣớc, có tinh thần tập thể 
xã hội chủ nghĩa và tƣ tƣởng “mình vì mọi ngƣời, mọi ngƣời vì mình”, phải thật thà, 
ngay thẳng, phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, phải “chí công vô tư” và có tinh thần 
“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”10, có tinh thần kỷ luật tự giác và ý thức tổ chức 
nghiêm chỉnh, phải nên gƣơng “cần kiệm liêm chính”11. 
 Khổng Tử và Hồ Chí Minh đều nêu cao vai trò đạo đức của ngƣời cầm quyền, 
đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đạo đức và tu dƣỡng đạo đức. Khổng Tử cho 
rằng, từ thiên tử cho đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Hồ Chí Minh cũng 
cho rằng “cũng nhƣ sông có nguồn mới có nƣớc, không có nguồn thì sông cạn. Cây 
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Ngƣời cách mạng phải có đạo đức, không có 
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân dân. Vì muốn giải phóng 
cho dân tộc, giải phóng cho loài ngƣời là một công việc to tát, mà tự mình không có 
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”12. Hồ 
Chí Minh coi đức là gốc, “ngƣời cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, 
mới hoàn thành đƣợc nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”13. 
 Trên nền tảng một xã hội chịu ảnh hƣởng lâu dài của Nho giáo và trong hoàn 
cảnh lịch sử mới, Hồ Chí Minh đã “tái cấu trúc” đạo đức Nho giáo, tức là đƣa vào đó 
những nội dung mới cho phù hợp với mục tiêu xây dựng xã hội mới. Khổng Tử cho 
rằng, những phẩm chất đạo đức cần có của mẫu ngƣời lý tƣởng là Nhân, Trí, Dũng. 
Đến Mạnh Tử, ông đã kế thừa “Tam đức” của Khổng Tử và phát triển thành “Tứ đức”: 
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển thêm tƣ tƣởng đó khi cho 
rằng, những phẩm chất đạo đức cách mạng cần có của ngƣời cách mạng là: “Nhân, 
nghĩa, trí, dũng, liêm”14. Nhƣng trong các phẩm chất đạo đức ấy, Hồ Chí Minh nhấn 
mạnh phẩm chất Dũng và Liêm mà ít đề cập đến Lễ của Nho giáo. Có thể nói, lễ giáo 
của Nho giáo rất nặng nề và thậm chí mang tính cổ hủ, lỗi thời, song tác dụng của Lễ 
9 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.492. 
10 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.311. 
11 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.309. 
12 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252-253. 
13 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.283. 
14 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.251. 
 251| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
về phƣơng diện ứng xử văn hóa vẫn đƣợc Ngƣời quan tâm. Cụ thể là, trong thƣ gửi 
đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an khu 12, vào tháng 3/1948, Ngƣời nói về tƣ 
cách ngƣời công an cách mạng là: 
 “Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính 
 Đối với đồng sự phải thân ái, giúp đỡ 
 Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép 
 Đối với công việc phải tận tụy 
 Đối với địch phải cƣơng quyết, khôn khéo”. 
 (Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân) 
 Nhân trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ là lòng yêu thƣơng con ngƣời (ái 
nhân), là khắc kỷ phục lễ, là trung thứ, điều gì mình không muốn thì đừng đem áp dụng 
cho ngƣời khác, mình muốn lập thân thì cũng giúp ngƣời khác lập thân, mình muốn 
thành đạt thì cũng giúp cho ngƣời khác thành đạt. Tuy vậy, mặt hạn chế trong tƣ tƣởng 
của Khổng Tử và các môn đệ của ông về Nhân xuất phát từ lập trƣờng giai cấp của các 
ông, tuy nêu quan điểm yêu thƣơng con ngƣời, nhƣng lại không đem đến sự giải phóng 
cho con ngƣời. Trên thực tế, các nhà sáng lập Nho giáo sơ kỳ vẫn muốn duy trì một xã 
hội có sự phân biệt đẳng cấp, trong đó đa số quần chúng lao động vẫn bị áp bức, bóc 
lột. Nhân trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh mang nội dung mới, cụ thể, thiết thực hơn, đó là 
lòng yêu thƣơng vô hạn với Tổ quốc, với đồng bào, nhân dân lao động, lòng tận trung 
vô hạn đối với sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động. Nhân trong tƣ tƣởng Hồ Chí 
Minh có ý nghĩa chủ động hơn, thể hiện ở tinh thần kiên quyết đấu tranh chống lại 
những cái có hại cho ngƣời khác, cho nhân dân. Nhân ở Hồ Chí Minh là một chủ nghĩa 
nhân văn hoàn chỉnh thể hiện không chỉ ở tấm lòng yêu quý nhân dân mà còn ở niềm 
tin vô hạn đối với sức mạnh của quần chúng khi quần chúng tự giác đứng lên để tự giải 
phóng chính mình. 
 Nghĩa, trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ có quan hệ mật thiết với Nhân. Nếu 
Nhân thể hiện tình cảm sâu sắc nhất của con ngƣời thì Nghĩa là trách nhiệm để thực 
hiện tình cảm đó, cho nên tình vua tôi, cha con, chồng vợ chƣa đủ mà còn phải có 
nghĩa vụ nữa, đó là nghĩa vua tôi, nghĩa cho con, nghĩa chồng vợ. Nho giáo nhấn mạnh 
vai trò của Nghĩa. Mạnh Tử nói: “Sống là điều ta ham muốn, nghĩa cũng là điều ta ham 
muốn; hai điều đó không thể giữ lại cả hai, thì ta bỏ mạng sống để giữ điều nghĩa 
vậy”15. Trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Nghĩa là tinh thần vì dân, vì nƣớc, vì sự nghiệp 
giải phóng nhân dân lao động. “Nghĩa là ngay thẳng, không có tƣ tâm, không làm việc 
15 Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà 
Nội, tr.1221. 
|252 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng 
phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận”16. 
 Trí trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ là năng lực tƣ duy và ứng xử, đặc biệt 
nhấn mạnh hiểu biết Lễ và thực hành Lễ nhằm duy trì trật tự xã hội mà Nho giáo sơ kỳ 
cho là lý tƣởng. Hồ Chí Minh quan niệm rằng, Trí trong đạo đức cách mạng là không 
ngừng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, nhận 
thức đúng quy luật vận động phát triển tất yếu của lịch sử, tiền đồ của Tổ quốc và 
nhiệm vụ của cá nhân. Trí là có tinh thần mƣu trí sáng tạo, giải quyết đƣợc mọi công 
việc khó khăn, sáng suốt vƣợt qua đƣợc mọi thử thách, biết thiên biến vạn hóa, biết 
biến nguy thành yên. Trong quan niệm về Trí của Hồ Chí Minh và Nho giáo sơ kỳ có 
nét tƣơng đồng. Nho giáo sơ kỳ cho rằng Trí là biết ngƣời, để yêu ngƣời và ghét ngƣời 
một cách chính đáng, để sử dụng con ngƣời, sắp xếp công việc phù hợp với trình độ và 
năng lực của họ. Trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ, Trí là biết cất nhắc ngƣời ngay 
thẳng, loại bỏ kẻ gian tà nhằm đem lại lợi ích cho dân. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, 
Trí là “Biết xem ngƣời. Biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại 
cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc ngƣời tốt, đề phòng ngƣời gian”17. 
 Dũng trong quan niệm của Nho giáo sơ kỳ là lòng can đảm, không sợ sệt, dám 
đấu tranh bảo vệ lẽ phải, thực thi đạo nghĩa. Dũng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là thể 
hiện ý chí cách mạng, không ngại gian khổ hy sinh, nêu cao ý chí cách mạng, quyết 
tâm thực hiện lý tƣởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn 
thành, khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Ngƣời nhấn mạnh: 
“Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc khó có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa 
chữa. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần, thì có 
gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”18. 
 Liêm trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là ra sức giữ gìn phẩm chất đạo đức cách 
mạng, nêu cao tinh thần cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, chống tham ô lãng phí, 
sống trong sạch, khiêm tốn, giản dị. Ngƣời nói: “Liêm là không tham địa vị, không 
tham tiền tài. Không tham sung sƣớng. Không tham ngƣời tâng bốc mình. Vì vậy mà 
quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa”19. 
 Trong Tam cương, Nho giáo đặt lên hàng đầu quan hệ vua tôi và cha con. Do đó, 
tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của con ngƣời là Trung với vua và Hiếu với cha mẹ. 
16 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252. 
17, 18, 19 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252. 
 253| 
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam 
Nguyên tắc ứng xử vua tôi là: “quân xử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung”. Hồ Chí Minh 
đặt lên hàng đầu mối quan hệ giữa con ngƣời với Tổ quốc và nhân dân. Do đó, trong tƣ 
tƣởng Hồ Chí Minh, Trung là trung với nƣớc và Hiếu với dân. Trung không phải để 
phục vụ vua chúa mà phục vụ cho Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, Trung là trung thành 
tuyệt đối với tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của 
nhân dân lên trên hết. Ngƣời nói: “Đạo đức ngày trƣớc chỉ trung với vua, hiếu với cha 
mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nƣớc. Phải hiếu với 
toàn dân, với đồng bào”20. Hồ Chí Minh cho rằng, ngƣời làm cách mạng phải hiểu chữ 
Hiếu một cách rộng rãi, không bó hẹp trong phạm vi chỉ Hiếu với cha mẹ của mình mà 
còn Hiếu với cha mẹ của đồng bào mình. Nhƣ vậy, họ cũng là những ngƣời chí Hiếu 
nhất, bởi họ không chỉ biết thƣơng cha mẹ của mình mà còn thƣơng cha mẹ ngƣời và 
làm cho mọi ngƣời đều biết thƣơng cha mẹ, cuộc cách mạng do họ tiến hành mang lại 
độc lập, tự do, hạnh phúc, no ấm cho toàn dân tộc, đó là biểu hiện của chữ Hiếu triệt để 
nhất, rộng rãi và nhân văn nhất. 
 Kế thừa những giá trị tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đƣa vào những 
phạm trù đạo đức Nho giáo những ý nghĩa mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới của 
thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cấu trúc 
đạo đức mới, lợi phải gắn liền với nghĩa, nhà phải gắn liền với nƣớc, quyền lợi cá nhân 
gắn liền với sự giầu mạnh của Tổ quốc. 
 Để xây dựng đƣợc xã hội lý tƣởng, Nho giáo sơ kỳ cho rằng, phải có vua sáng, tôi 
hiền. Các nhà sáng lập Nho giáo đặt vấn đề tu dƣỡng đạo đức lên hàng đầu, từ thiên tử 
đến thứ dân, ai cũng phải lấy tu thân làm gốc. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò 
của đạo đức trong việc kiến tạo một xã hội mới ở một xã hội mang đậm tính chất 
phƣơng Đông và ảnh hƣởng đậm nét của Nho giáo nhƣ Việt Nam. Ngay từ những ngày 
đầu của cách mạng Việt Nam, Ngƣời đã nêu ý nghĩa quan trọng của việc tu dƣỡng đạo 
đức ở những ngƣời chiến sĩ cộng sản: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ 
có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”21. Hồ Chí Minh cho rằng, trong sự 
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức là gốc, đã là ngƣời cách mạng phải có bản 
lĩnh đạo đức: “Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo Ngƣời cách mạng phải có 
đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đƣợc nhân 
dân”22. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến cứu nƣớc và xây dựng 
20 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.149. 
21 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.480. 
22 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.467. 
|254 
 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 
chủ nghĩa xã hội, cho đến cuối đời, Ngƣời luôn nhắc nhở mọi ngƣời khắc phục chủ nghĩa 
cá nhân, trau dồi đạo đức cách mạng và chính Ngƣời đã nêu lên một tấm gƣơng sáng về 
việc tu dƣỡng đạo đức ngƣời chiến sĩ cộng sản cho Đảng và nhân dân ta. 
 Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, cùng là việc đề cao vai trò của đạo đức của 
ngƣời cầm quyền, nhƣng giữa Hồ Chí Minh và các nhà Nho sơ kỳ lại có khác biệt về 
bản chất. Hồ Chí Minh nói: “Có ngƣời cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì 
khác nhau. Nói nhƣ vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo 
đức cũ nhƣ ngƣời đầu ngƣợc xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới nhƣ ngƣời 
hai chân đứng vững đƣợc dƣới đất, đầu ngửng lên trời”23. 
III. KẾT LUẬN 
 Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ nền tảng xã hội truyền thống, xã hội đó 
chịu ảnh hƣởng lâu dài của tƣ tƣởng Nho giáo. Vì thế, chúng ta không thể không quan 
tâm xem xét đến việc chúng ta có thể kế thừa những giá trị nào của đạo đức Nho giáo 
để phát triển. Việc sử dụng những khái niệm, những từ ngữ vốn quen thuộc của Nho 
giáo để đƣa vào những nội dung mới là một biện pháp giáo dục sáng tạo và dễ dàng 
thuyết phục. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, những 
chuẩn mực đạo đức của Nho giáo nhƣ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí nói trên vẫn giữ nguyên giá 
trị. Vấn đề là chúng ta cần khai thác những giá trị đạo đức Nho giáo đó nhƣ thế nào để 
biến nó thành những giá trị tinh thần và đạo đức cao đẹp của nhân dân ta hôm nay. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải, Nxb Văn 
 hóa - Thông tin, Hà Nội. 
 2. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 3. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 4. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 5. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
23 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.320-321. 
 255| 

File đính kèm:

  • pdfsu_anh_huong_cua_nho_giao_so_ky_doi_voi_tu_tuong_ho_chi_minh.pdf