Rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong bối cảnh CPTPP đã có hiệu lực một năm qua
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) à
một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đầu tiên mà Việt Nam đã phê chuẩn và chính thức
có hiệu lực với Việt Nam kể từ ngày 14/1/2019. Hiệp định này được đánh giá à sẽ mở ra nhiều
cơ hội song cũng đem ại không ít thách thức đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
Các doanh nghiệp này vốn đang chịu nhiều thách thức trong quá trình phát triển, lại phải tiếp
t c đối mặt thêm với nhiều rào cản do CPTPP đem ại. Bài viết sẽ phân tích những rào cản mà
doanh nghiệp tư nhân gặp phải sau một năm CPTPP có hiệu lực ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong bối cảnh CPTPP đã có hiệu lực một năm qua", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trong bối cảnh CPTPP đã có hiệu lực một năm qua
chưa đủ, nếu không nói là quá chậm chạp. Bởi Quyết định 121 có từ cuối tháng 1, nhưng đến tận tháng 3 mới có đa số bộ ngành và địa phương triển khai, thậm chí có một số đơn vị đến tận hơn nửa năm sau mới triển khai (như bộ Tư Pháp, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam). Cũng theo Kế hoạch của Quyết định 121, có ít nhất 10 văn bản pháp luật cần tiến hành sửa đổi hoặc ban hành mới để thực thi CPTPP ngay trong tháng 1/2019. Tuy nhiên sau hơn 13 tháng thực hiện mới có 8 văn bản được ban hành liên quan đến CPTPP (Bảng 3), một số văn bản pháp luật khác vẫn đang trong quá trình soạn thảo, lấy ý kiến, chưa được ban hành. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc sớm tận dụng lợi ích của CPTPP. 840 Bảng 3: Các văn bản pháp luật đã được ban hành để thực thi CPTPP kể từ khi CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam STT Tên văn bản PL Ngày ban hành Nội dung 1 03/2019/TT-BCT 22/1/2019 Quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương 2 07/2019/TT-BCT 19/04/2019 Quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 3 42/2019/QH14 14/6/2019 Luật sửa đổi Luật Kinh doanh Bảo hiểm và Luật Sở hữu Trí tuệ Có hiệu lực từ ngày 01/11/2019 4 57/2019/NĐ-CP 26/06/2019 Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương giai đoạn 2019 - 2022 5 734/QĐ-TTg 14/6/2019 Chỉ định các cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định CPTPP 6 62/2019/TT-BTC 05/9/2019 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 38/2018/TT-BTC ngày 20/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. 7 19/2019/TT-BCT 30/09/2019 Quy định về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 8 03/2020/TT-BCT 22/01/2020 Quy định việc nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo hạn ngạch thuế quan theo Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương Nguồn: Tác giả tổng hợp từ nguồn Khó khăn của doanh nghiệp tư nhân khi tiếp cận CPTPP một phần xuất phát từ phía cơ quan quản lý, ban ngành và hiệp hội khi triển khai thông tin, cụ thể hóa cam kết trong hiệp định theo ―ngôn ngữ doanh nghiệp‖ còn chậm. Cũng có những doanh nghiệp đã chú , thực sự muốn tìm hiểu về các cam kết trong CPTPP, nhưng rất khó để có thể hiểu hết các cam kết. Bởi, cả một Hiệp định đồ sộ 30 chương và 9 phụ lục và những thỏa thuận riêng giữa các quốc gia, với những câu chữ phức tạp, nhưng không có những giải thích cụ thể mà đôi khi chỉ 841 người đàm phán mới hiểu rõ, cho nên nhiều doanh nghiệp không thể nắm bắt được. Trong khi đó, dường như chỉ có một số kênh chính thức thực hiện truyền tải thông tin nội dung Hiệp định đến doanh nghiệp, cụ thể là VCCI (thông qua website hoặc hội thảo, tư vấn, cẩm nang cho doanh nghiệp), hoặc cổng thông tin Ngoài ra, đối với từng ngành hàng cũng có những cản trở riêng, đặc biệt là các vấn đề về quy tắc xuất xứ hàng hóa để hưởng ưu đãi thuế quan, hay về các cam kết iên quan đến tiêu chuẩn ao động, môi trường, trách nhiệm xã hội iên quan đến ngành hàng khiến khối doanh nghiệp tư nhân trong nước chưa thể tiếp cận được hết cơ hội vàng từ Hiệp định này mang lại. Các doanh nghiệp chưa nhận được nhiều sự hỗ trợ giải đáp thông tin, hướng dẫn thực hiện từ các cơ quan đầu mối phụ trách ngành hàng (theo Quyết định 121) hoặc từ các hiệp hội ngành hàng. Ví dụ, đối với ngành thủy sản, vấn đề đánh bắt thủy sản bền vững và cân bằng hệ sinh thái là yêu cầu quan trọng để các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam xuất khẩu sản phẩm vào các thị trường của CPTPP. Hay đối với ngành dệt may, đây là ngành luôn trong top dẫn đầu về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và cũng là ngành được đánh giá có cơ hội rất lớn trong CPTPP. Trong một năm vừa qua, kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may có tăng trưởng nhưng không được như kì vọng (đạt 39 tỷ đô la Mỹ (USD), thấp hơn 21 tỷ USD so với dự báo tác động CPTPP) mặc dù một số quốc gia (như Nhật Bản, Canada) gần như mở cửa ngay lập tức cho Việt Nam với mặt hàng này. CPTPP chỉ cho ph p các nước nhận được ưu đãi thuế quan nếu tuân thủ quy tắc xuất xứ, tức là tất cả các công đoạn cấu thành nên sản phẩm tính từ ―sợi trở đi‖ đều được sản xuất trong khối CPTPP. Trong khi đó, tỉ lệ nội địa hóa của ngành dệt may mới đạt khoảng 40 - 45%, sợi, vải và nhiều nguyên phụ liệu khác sử dụng cho ngành lại phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc - là những nước không nằm trong CPTPP. Ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt may hiện nay còn khá yếu. Mặc dù một số doanh nghiệp dệt may trong nước đã đang xây dựng các nhà máy sản xuất bông, sợi, vải hoặc chủ động liên kết tìm nguồn nguyên liệu trong nước hoặc Nhật Bản nhưng chủ yếu diễn ra ở một số doanh nghiệp lớn như May 10, Tổng công ty 28 và một số doanh nghiệp nước ngoài. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân quy mô vừa và nhỏ trong nước đang gặp rào cản này vì chủ yếu là gia công theo đơn đặt hàng, nguyên liệu nhập khẩu không đáp ứng được quy tắc xuất xứ. Bên cạnh những khó khăn mang tính kĩ thuật khi tiếp cận dưới góc độ xuất khẩu nêu trên, doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp tư nhân nói riêng cũng đang rất khó khăn khi cạnh tranh với hàng hóa từ các nước CPTPP ngay tại thị trường nội địa. Khi mà chất lượng, mẫu mã của các doanh nghiệp kinh doanh trong nước chưa cao, hàng nước ngoài tràn vào thị trường trong nước với giá cả cạnh tranh (những cam kết cắt giảm thuế quan ở nhiều mặt hàng) cộng với tâm l tiêu dùng hướng ngoại của đa số người tiêu dùng trong nước sẽ khiến doanh nghiệp vừa và nhỏ càng khó cạnh tranh. Quan sát rõ nét nhất trong năm qua là các mặt hàng sữa và hoa quả (lê, mận, cherry, táo) từ Australia xuất sang thị trường Việt Nam tăng đột biến và gây sức ép tiêu thụ đối với trái cây trong nước của nhiều doanh nghiệp và nông hộ trồng và cung cấp trái cây Việt Nam. Chỉ mới bốn tháng đầu năm 2019 mặt hàng 842 rau quả nhập khẩu đạt trên 33 triệu USD, tăng 64% so với cùng k năm 2018. Còn sữa và các sản phẩm từ sữa đạt 21,8 triệu USD, tăng 152% so với cùng k năm ngoái. 5. Kết luận và khuyến nghị Trong xu hướng hội nhập CPTPP và các hiệp định tự do thế hệ mới khác với phạm vi rộng và mức độ cam kết ngày càng cao hơn thì các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt nhiều rào cản để tồn tại và phát triển. Bản thân khu vực doanh nghiệp tư nhân đang có nhiều thay đổi, phát triển cả về nhận thức l luận và thực tiễn. Nhưng để các doanh nghiệp tư nhân vượt qua được những rào cản này đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị xã hội và doanh nghiệp cần có kế hoạch cụ thể: Cụ thể, về phía Nhà nước: Quốc hội, Chính phủ và các bộ ban ngành tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện các giải pháp đổi mới cơ chế chính sách để tạo lập sự bình đẳng thật sự trong tiếp cận các nguồn lực (ví dụ như thông tin chính sách, quy hoạch; đất đai; tài nguyên; vốn đầu tư; lao động; công nghệ), bình đẳng trong môi trường kinh doanh giữa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp (doanh nghiệp vừa, nhỏ và doanh nghiệp lớn), đồng thời có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (bình đẳng theo chiều dọc) như thành lập các liên kết sản xuất ngành và tạo lập, hoàn thiện quy chế hoạt động của các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; tạo môi trường điều kiện và cơ chế để các doanh nghiệp tư nhân kết nối với doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt là doanh nghiệp FDI tạo lập chuỗi sản xuất trong nước nhằm tăng giá trị nội địa của hàng hóa xuất khẩu ... cũng như cải cách các thủ tục hành chính để giảm thiểu chi phí (chính thức và phi chính thức) để doanh nghiệp tập trung phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời, các bộ ban ngành cần đẩy mạnh triển khai các Kế hoạch hành động theo Quyết định 121. Trước mắt đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến thông tin về hiệp định CPTPP và thị trường của các nước thành viên và công tác đào tạo tập huấn của các bộ ngành phối hợp các hiệp hội ngành hàng tới các doanh nghiệp trong ngành, thông tin vận động doanh nghiệp tư nhân tham gia các buổi tập huấn đào tạo đó. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chỉ đạo các Bộ, ngành chủ động nghiên cứu, vận dụng các biện pháp phi thuế như các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại được phép áp dụng theo các cam kết quốc tế của Việt Nam nói chung và Hiệp định CPTPP nói riêng để hỗ trợ cũng như bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ cũng sẽ có các biện pháp trợ giúp doanh nghiệp để chủ động xử lý kịp thời các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong đó có việc tổ chức đào tạo lại đội ngũ lao động. Một lưu , CPTPP có thành lập Ủy ban Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ nhằm bảo đảm sự tham gia của các doanh nghiệp SME trong quá trình thực thi Hiệp định CPTPP cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp SME tận dụng được các lợi ích của Hiệp định. Do đó, Chính phủ nên xem x t có thêm cơ chế chính sách cho Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam tăng cường vai trò truyền tải thông tin, đào tạo tập huấn về CPTPP cho các thành viên (chủ yếu đều là các doanh nghiệp tư nhân); đồng thời Hiệp hội sẽ đại diện các doanh nghiệp SME tham gia trao đổi, tham vấn chính sách thông qua các hội thảo, hội nghị do Ủy ban Doanh nghiệp 843 vừa và nhỏ của CPTPP tổ chức để đảm bảo quyền lợi và tăng cơ hội được cọ sát, học hỏi của các doanh nghiệp SME Việt Nam khi hội nhập CPTPP. Về phía các doanh nghiệp tư nhân: các doanh nghiệp cần phải tăng cường ―chủ động‖ tìm hiểu các cam kết, quy định của CPTPP nói chung và ngành hàng mà doanh nghiệp mình kinh doanh, các cơ hội ưu đãi và điều kiện hưởng ưu đãi để chủ động thay đổi cách thức sản xuất đáp ứng điều kiện. Ví dụ, khi doanh nghiệp chủ động trong việc tìm hiểu cam kết thuế quan sẽ cho doanh nghiệp biết hàng hóa của mình khi xuất khẩu sang nước đối tác CPTPP sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi như thế nào, với lộ trình cắt giảm thuế từng năm ra sao. Đồng thời, để được hưởng ưu đãi thuế quan thì doanh nghiệp phải hiểu và đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định. Điều này là vô cùng quan trọng vì để có được giấy chứng nhận xuất xứ CPTPP, hoặc tự chứng nhận xuất xứ CPTPP thì ngay từ khâu nhập khẩu nguyên liệu, doanh nghiệp đã phải lấy được giấy chứng nhận xuất xứ CPTPP cho các nguyên liệu của mình để phục vụ cho việc chứng nhận xuất xứ CPTPP cho hàng hóa thành phẩm sau này. Bên cạnh việc chủ động tìm hiểu thủ tục chứng nhận xuất xứ, các doanh nghiệp tư nhân cũng cần ―chủ động‖ thay đổi quy trình sản xuất, chuyển hướng nguồn nhập khẩu sang các nguồn nguyên liệu trong nước hoặc từ các nước thành viên CPTPP để đáp ứng được quy tắc xuất xứ của hiệp định. Đồng thời, các doanh nghiệp tư nhân khi tham gia xuất khẩu sang các nước thành viên CPTPP cũng cần lưu một số vấn đề mới của CPTPP như lao động, môi trường, để tránh gặp phải những trở ngại về điều kiện sử dụng lao động, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh học trong quá trình khai thác, sản xuất và kinh doanh. Trong dài hạn, để tận dụng CPTPP thì nền tảng cơ bản nhất vẫn là bản thân doanh nghiệp phải chủ động cải thiện năng lực cạnh tranh. Khi doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh thì CPTPP có mở ra nhiều cơ hội đến đâu cũng chỉ là để ngắm nhìn. Và để nâng cao khả năng cạnh tranh, vượt qua thách thức, các doanh nghiệp tư nhân cần phải tự học hỏi, đổi mới cách thức, mô hình quản trị doanh nghiệp và công nghệ sản xuất kinh doanh, xây dựng và quảng bá hình ảnh ở cả thị trường trong nước và nước ngoài... Đồng thời bản thân các doanh nghiệp tư nhân cần tích cực chủ động đối thoại với Nhà nước để nắm bắt được các chủ trương chính sách, pháp luật cũng như đóng góp thông tin để Nhà nước nắm bắt và có các biện pháp kịp thời, hợp l giải quyết khó khăn của các doanh nghiệp. Về phía các hiệp hội ngành nghề: Các hiệp hội ngành nghề chủ động phối hợp với các cơ quan đầu mối và liên quan để làm rõ nội dung của các FTA, trong đó có CPTPP theo ngôn ngữ doanh nghiệp, ngành hàng; và cung cấp thông tin, kết nối thị trường tới các thành viên (đặc biệt là nhóm doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ), góp phần hình thành chuỗi liên kết cung ứng-sản xuất-tiêu thụ nhằm tăng giá trị nội địa và khả năng cạnh tranh của ngành hàng. Các hiệp hội ngành nghề cũng phải phát triển về mặt tổ chức và chuyên môn để trở thành các tổ chức uy tín, đại diện tiếng nói và bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp sản xuất truyền thống, quy mô nhỏ trước sự cạnh tranh gay gắt của các tập đoàn, công ty lớn (ở nước ngoài) trên chính thị trường trong nước. 844 TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2019, NXB Thống Kê, Hà Nội. Đỗ Thị Thanh Huyền (2019), Vai trò và thực trạng phát triển kinh tế tư nhân hiện nay, Tạp chí Công Thương, số 3 tháng 3, 2019, trang 73-79. Lê Duy Bình (2018), Kinh tế tư nhân Việt Nam, Năng suất và thịnh vượng, Economica, Hà Nội. Nguyễn Hồng Sơn (2017), Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam: những rào cản và giải pháp khắc ph c, bài viết được thực hiện dựa một Đề án: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, do Hội đồng Lý luận Trung ương đặt hàng và Nhóm nghiên cứu của trường ĐH Kinh tế - ĐH Quốc Gia Hà Nội thực hiện vào tháng 3/2017. Nguyễn Mại, Nhìn lại một năm thực hiện CPTPP, truy cập tại ngày 01/2/2020 https://baodautu.vn/nhin-lai-mot-nam-thuc-hien-cptpp-d115318.html Nguyễn Thắng và cộng sự (2019), Năng suất và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, báo cáo theo sự ủy thác của Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Hà Nội. Tổng Cục Thống kê (2008), Kết quả tổng điều tra Cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2007: tập 1 kết quả chung, NXB Thống Kê, Hà Nội Tổng Cục Thống kê (2013), Kết quả tổng điều tra Cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp 2012, NXB Thống Kê, Hà Nội Tổng Cục Thống kê (2016 a), Hiệu quả của các doanh nghiệp trong nước giai đoạn 2005-2014, NXB Thống kê, Hà Nội. Tổng Cục Thống kê (2016 b), Báo cáo năng suất ao động của Việt Nam: thực trạng và giải pháp, truy cập ngày 20/11/2017 tại https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=15735 Tổng Cục Thống kê (2017), Niên giám Thống kê 2016, NXB Thống Kê, Hà Nội. Tổng Cục Thống kê (2018a), Niên giám thống kê 2017, NXB Thống Kê, Hà Nội. Tổng Cục Thống kê (2018b), Kết quả tổng điều tra kinh tế năm 2017, NXB Thống Kê, Hà Nội. Trần Kim Chung (2017), Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong mô hình phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 -2020 và tầm nhìn 2035, tạp chí Quản ý kinh tế số 80, trang 4-13. Các Website: www.gso.gov.vn https://www.vcci.com.vn/ https://vnexpress.net/kinh-doanh/
File đính kèm:
- rao_can_doi_voi_doanh_nghiep_tu_nhan_viet_nam_trong_boi_canh.pdf