Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh

Là triết học phi duy lý, chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh tính độc đáo của nhân vị và tự do của cá nhân đối

lập với đoàn nhóm, với sự đồng dạng phổ biến và xã hội đại chúng đề cao duy lý. Triết thuyết này dựa

trên quan điểm cho rằng tất cả mọi người phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về ý nghĩa và khái niệm cuộc

sống của mình, phải tạo ra được một bản sắc riêng cho mình. Giáo dục là phương thức hữu hiệu nhất để

đào tạo ra những con người có bản sắc riêng. Theo các nhà hiện sinh, giáo dục mang sứ mệnh khai phóng

ý thức và trách nhiệm của con người về chính nhân vị và sự tự do của họ. Với những nhận định đó, bài

báo nhằm mục đích làm rõ quan niệm về tự do trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh.

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 1

Trang 1

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 2

Trang 2

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 3

Trang 3

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 4

Trang 4

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 5

Trang 5

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 6

Trang 6

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 7

Trang 7

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 8

Trang 8

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 9

Trang 9

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 2320
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh

Quan niệm về tự do của con người trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh
ên xem học sinh 
như những cá nhân và cho phép họ có một 
vai trò tích cực trong việc định hình giáo 
dục và cuộc sống của chính họ, sống động 
trong từng khoảnh khắc, theo Sartre: “Mỗi 
khoảnh khắc chỉ xuất hiện để đưa dẫn 
những khoảnh khoảnh khắc tiếp theo. Tôi 
đem hết lòng mình ra nâng niu từng 
khoảnh khắc: tôi biết rằng mỗi khoảnh 
khắc là độc nhất, không thể thay thế 
được Tôi cúi mình trên mỗi phút giây, 
tôi cố tâm sống cho cùng kiệt nó, chẳng có 
gì xảy ra mà tôi không nắm bắt lấy” 
(Sartre, 1967, tr. 74) 
Đúng là nếu học sinh mang nền tảng 
kinh nghiệm đến trường sẽ ảnh hưởng đến 
quyết định cá nhân, nhưng nhìn chung, các 
nhà hiện sinh cho rằng trường học và tổ 
chức của họ là nơi tự do, nơi học sinh được 
khuyến khích làm việc vì sự đa dạng trong 
giáo dục, không chỉ trong chương trình 
giảng dạy, mà trong cả cách dạy học. 
Khi người học được khuyến khích theo 
đuổi các dự án họ sẽ phát triển các kỹ năng 
cần thiết và có được kiến thức cần thiết. 
Phương pháp hiện sinh tập trung vào cá 
nhân riêng biệt. Học là tự học, tự học chỉ 
đạo và bao gồm rất nhiều liên hệ của cá 
nhân người học với giáo viên, người liên 
quan đến mỗi học sinh một cách cởi mở và 
trung thực. 
d. Về trường học 
Trong giáo dục, chủ nghĩa hiện sinh 
tập trung vào cá nhân riêng biệt, tìm kiếm 
sự hiểu biết cá nhân về thế giới. Thông qua 
cách giải thích này, mỗi cá nhân đặc trưng 
cho mình bằng các khái niệm về thực tế, 
sự thật, lòng tốt và kết quả là các trường 
học tồn tại để giúp người học nhận thức 
được bản thân và vị trí của mình trong xã 
hội. Trong trường phái hiện sinh thì con 
người phi lý trí, tức là bản thân thẩm mỹ, 
đạo đức và cảm xúc của con người thể 
hiện rõ hơn bản thân lý trí, khoa học. 
Những người theo chủ nghĩa hiện sinh 
quan tâm nhiều hơn đến phát triển khía 
cạnh hiệu quả của con người - khả năng 
yêu thương, đánh giá cao và đáp ứng tình 
cảm với thế giới xung quanh. 
Mục đích của trường học là để nuôi 
dưỡng sự tự lập và trau dồi sự tự đánh giá. 
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng việc tiếp tục 
thử nghiệm sư phạm và tâm lý sẽ chẳng ích 
gì nếu đứa trẻ không được nuôi dưỡng trong 
một trường học nhân hóa. Nhà trường cần 
cung cấp môi trường nơi các cá nhân phát 
triển một cách lành mạnh. Trường học chủ 
yếu là một nơi để có kinh nghiệm với cuộc 
sống từ đó chủ nghĩa hiện sinh, cũng như 
chủ nghĩa thực dụng bác bỏ lý thuyết học 
giả. Vì vậy, các trường học nên hòa mình 
trong cuộc sống của học sinh. Nhà trường 
phải là một diễn đàn nơi sinh viên có thể 
tham gia đối thoại với các sinh viên và giáo 
viên khác để giúp họ làm rõ tiến trình 
hướng tới sự hoàn thiện bản thân. 
Tư tưởng dân chủ được thực thi trong 
trường học. Nó phải là nền dân chủ của 
những cá nhân độc đáo coi trọng sự khác biệt 
và tôn trọng lẫn nhau. Người học được tham 
gia lập kế hoạch và khuyến khích một bầu 
không khí tự do đặc trưng cho trường học. 
Tuy nhiên, yếu tố môi trường gia đình 
được chủ nghĩa hiện sinh đề cao. Các nhà 
hiện sinh khẳng định rằng phát triển giáo 
dục không thể diễn ra mà không có sự hỗ 
TRẦN THỊ THẢO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
109 
trợ từ cuộc sống gia đình. Ở trường, trẻ có 
ý tưởng trở thành một đối tượng như trong 
số nhiều người trong khi ở nhà, nó tự định 
hình bản thân mình. Trong gia đình, trẻ tìm 
thấy điều kiện thích hợp để bồi dưỡng bản 
thân đích thực. Cũng Chính trong gia đình, 
trẻ em trải qua tình yêu của cha mẹ và mối 
quan tâm thường xuyên đối với lợi ích của 
chúng mà nhân loại giúp chúng làm chủ 
những khó khăn của cuộc sống hàng ngày. 
e. Về vai trò của người thầy 
Chủ nghĩa hiện sinh được xem là một 
trường phái triết học xem giáo dục là sự 
đánh thức lại sự quan tâm của con người 
đối với bản thân, nhiệm vụ của giáo viên 
là đánh thức sự tự do và trách nhiệm của 
học sinh. 
Chủ nghĩa hiện sinh là một triết lý dựa 
trên quan niệm rằng sự tồn tại của con 
người là một kinh nghiệm nội tại, chủ 
quan. Nó cho rằng con người có thể vượt ra 
ngoài sự tồn tại đơn thuần là bản chất, bằng 
cách tích cực tìm cách khám phá tính mục 
đích trong sự tồn tại của họ và gán cho ý 
nghĩa cá nhân của nó. Họ làm điều này 
bằng cách xác thực, lựa chọn độc lập và 
bằng cách nhận trách nhiệm về hậu quả của 
những lựa chọn trong suốt cuộc đời của họ. 
Do đó, các giáo viên phải nhận ra rằng 
thực tế được trải nghiệm một cách chủ 
quan và sau đó họ phải tôn trọng và nuôi 
dưỡng thực tế chủ quan của học sinh. Họ 
có thể làm điều này bằng cách áp dụng hai 
nguyên tắc hiện sinh trong lớp học của họ. 
Đầu tiên, giáo viên phải hứng thú thay 
vì ngăn cản sự trải nghiệm xác thực của 
học sinh. Thứ hai, họ có thể khuyến khích 
học sinh của mình “can đảm để trở thành” 
bằng cách nhận ra thực tế chủ quan của học 
sinh, bằng cách tôn vinh sự chân thực và 
bằng cách khuyến khích học sinh với cơ 
hội để trở thành tốt nhất họ có thể. 
Giáo viên phải đảm bảo nguyên tắc tự 
thực hiện. Đối với điều này, giáo viên phải 
thấy rằng cá nhân học sinh liên quan đến 
các vấn đề của họ bởi vì người ta không 
thể nhận ra chính mình mà không hoàn 
thành công việc theo cách riêng của mình. 
Vai trò của giáo viên là hỗ trợ để họ sinh 
trở thành “bản gốc” và “xác thực”. Giáo 
viên cần nỗ lực để thấy năng lực tự quản trị 
của học sinh để giúp họ trở nên tự do và 
linh hoạt. 
Giáo viên phải chủ động trong vai trò 
giảng dạy của mình. Tác dụng của thầy đối 
với trò phải có “tính sản xuất” chứ không 
nên có tính “sao chép” hàng loạt tạo ra một 
mẫu người theo mô thức của thầy. Dạy học 
trò “làm người là dạy phải vượt qua và vượt 
trên ông thầy. Ông thầy nào biết dạy môn 
sinh như thế thực đáng gọi là ông thầy cao 
cả, ông thầy dạy ta làm người, chớ không 
dạy ta làm môn sinh suốt đời” (Trần Thái 
Đỉnh, 2015, tr.149). Nietzsche viết: “Giờ 
đây ta ra lệnh cho các ngươi hãy đánh mất 
ta và tìm chính bản lại diện mục của các 
ngươi; chỉ khi nào tất cả các ngươi đều chối 
bỏ phủ nhận ta, lúc đó ta mới trở lại cùng 
các ngươi” (F.Niezsche, 2003, tr.159). 
Giáo viên phải khuyến khích sự sáng 
tạo, khám phá của người học, nhưng không 
nên cố gắng hướng sinh viên hoặc áp đặt ý 
chí của mình lên họ. Trách nhiệm và nghĩa 
vụ của giáo viên hiện sinh là rất khó khăn 
vì trong cách đối xử với “tha nhân”, người 
giáo viên phải giữ sự chủ quan của chính 
mình đồng thời nhận ra sự chủ quan của 
người khác. Theo Jaspers, nhà giáo dục 
thực thụ là người suốt đời tham gia vào quá 
trình tự giáo dục thông qua giao tiếp. Giáo 
dục chỉ có thể trở nên đúng đắn nếu người 
tiếp nhận nó có được khả năng giáo dục 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 
110 
bản thân thông qua việc học tập nghiêm 
ngặt và bền bỉ. 
f. Về mối quan hệ giữa giáo viên và 
học sinh 
Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh rằng 
mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh 
của mình phải thân mật, gần gũi, sống 
động và cá nhân hơn so với mối quan hệ 
hiện có giữa hai người trong trường học 
truyền thống. Học sinh trước hết được xem 
như một cá nhân, biết tự chịu trách nhiệm 
về những suy nghĩ, niềm tin và cách cư xử 
của chính mình. Vai trò của giáo viên là 
cung cấp các con đường để thăm dò học 
sinh, tạo ra một môi trường mà họ có thể tự 
do lựa chọn cách ưa thích của riêng mình. 
Tất cả các nhà hiện sinh lên án các mối 
quan hệ mang tính hình thức. Họ khẳng 
định rằng mối quan hệ giữa giáo viên và 
học sinh phải rất chặt chẽ liên quan đến sự 
thân mật trong việc thông giao. Giáo viên 
cũng như học sinh trong mọi trường hợp 
phải là một nhân cách tự do của riêng họ. 
Giáo viên phải giao thoa hài hòa, người 
giáo viên hiện sinh là phải chia tâm hồn 
mình thành hai thái cực: ngoan ngoãn và 
nổi loạn nhưng giáo viên phải có sự chính 
trực, hòa nhập với học sinh thông qua hành 
động và thái độ của mình. 
2. Ảnh hưởng quan điểm tự do trong 
triết lý giáo dục của chủ nghĩa hiện sinh 
đối với giáo dục hiện nay 
Tuy không trình bày một cách rõ ràng 
và có hệ thống về giáo dục nhưng chủ 
nghĩa hiện sinh là một triết lý mang tính 
giáo dục. Nó thể hiện sự tiếp nối một số 
truyền thống của châu Âu và giải quyết các 
vấn đề quan trọng của thời điểm đương đại 
cho cả triết học và cuộc sống. Việc đánh 
thức sự quan tâm của con người đối với 
chính mình là đặc điểm chính của giáo dục 
hiện sinh. Các nhà hiện sinh khẳng định 
rằng một nền giáo dục tốt sẽ khuyến khích 
con người nhận thức được rằng cá nhân 
con người là một sinh vật tình cảm và phi 
lý hơn là một sinh vật vô cảm và duy lý. 
Quan điểm tự do của chủ nghĩa hiện 
sinh đề cao tính chủ thể. Đó là những trải 
nghiệm độc đáo của riêng cá nhân đến từ 
nhận thức của chính bản thân. Nhận thức 
này không chỉ giới hạn ở lý trí hoặc trực 
giác mà bao gồm các trải nghiệm về cảm 
giác, đức tin, hành động có ý thức phản xạ 
trước các mối quan hệ. Con người tách 
mình ra khỏi tập thể và bắt đầu quá trình 
thực hiện những khả năng do chính mình 
đề xuất. Cá nhân ý thức được rằng họ phải 
chịu trách nhiệm cho những gì đã làm. 
Điều này có những đóng góp cho giáo dục, 
nó giúp học sinh và giáo viên tạo ra ý 
nghĩa trong cuộc sống của họ, khám phá 
những ý tưởng về bản thân và thế giới của 
họ. Quan niệm này có thể làm sáng tỏ và 
mang lại nhiều yếu tố dân chủ hơn cho 
giáo dục Việt Nam, đặc biệt là mang đến 
cho giáo viên phương pháp giáo dục mới 
để đào tạo nên những học sinh có tư chất 
độc lập, sẵn sàng thích nghi và ứng phó với 
tình huống bất trắc của cuộc sống. 
Xã hội hiện đại làm cho con người trở 
nên khách quan đến mức mối quan hệ của 
con người với bản thân bị phá vỡ. Con 
người bị quy đồng trong những mẫu số 
chung của những định chế, quy ước của xã 
hội, luôn lo lắng và thất vọng. Cá nhân trở 
thành con người phiến diện, con người một 
chiều kích. Marcuse cho rằng: “khi sự phát 
triển của công nghệ hiện đại tạo ra những 
“false needs” (những nhu cầu giả tạo), ví dụ 
như chủ nghĩa tiêu thụ, và là cái bóng khổng 
lồ chế ngự sự đa dạng, tính sáng tạo, cái 
nhìn khai phóng trong đời sống con người”. 
TRẦN THỊ THẢO TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
111 
(H. Marcuse, 2007, tr.7). Hình tượng “một 
chiều” ở đây ám chỉ việc con người đang bị 
kẹt trong một kiểu sống mòn, khi các 
phương tiện truyền thông cùng nhau truyền 
tải lặp đi lặp lại một vài thông điệp và 
quảng bá một vài giá trị nhất định trong khi 
kiến thức ngày nay là đa chiều. Bản chất 
con người có nhiều mặt, phức tạp và liên 
quan đến sự khác biệt cá nhân. Do đó, quan 
điểm tự do trong triết lý giáo dục hiện sinh 
góp phần đáp ứng nhu cầu của thời đại mới, 
dần dần đưa người học đến tính chủ thể. Sự 
quan tâm của chủ nghĩa hiện sinh hướng 
đến “con người” - con người chân chính và 
đích thực, những lựa chọn của con người 
được thực hiện với toàn bộ trách nhiệm về 
kết quả của sự lựa chọn để tự do. Hay nói 
cách khác tự do của chủ nghĩa hiện sinh 
nhấn mạnh đến sự tồn tại của con người, 
phẩm chất của từng cá nhân hơn là con 
người trong trừu tượng của tự nhiên và thế 
giới nói chung. Cho nên, quan điểm giáo 
dục của chủ nghĩa hiện sinh hướng đến làm 
phong phú trí tuệ của con người để họ có 
thể được tôn trọng trong mắt của chính 
mình và của những người khác. Chính điều 
này thúc đẩy sự sáng tạo của người học, tạo 
sự khai phóng trong giáo dục, không rập 
khuôn, máy móc. 
Tuy nhiên, bên cạnh đó, quan niệm về 
tự do trong triết lý giáo dục của chủ nghĩa 
hiện sinh cũng có những hạn chế. 
Các mục tiêu, chương trình giảng dạy 
và phương pháp theo chủ nghĩa hiện sinh là 
phụ thuộc vào sự lựa chọn và tự do của cá 
nhân. Một chương trình giáo dục như vậy 
rất khó để thực thi đại chúng; Mối quan hệ 
cá nhân của giáo viên yêu cầu giáo viên 
phải có sự hiểu biết sâu sắc về mọi tính 
cách của học sinh sẽ đòi hỏi rất nhiều thời 
gian và công sức. 
Các khái niệm về “tồn tại”, “nhân vị” 
vốn dĩ không được chủ nghĩa hiện sinh làm 
rõ với tư cách là hệ thống phạm trù, bỡi lẽ 
chủ nghĩa hiện sinh luôn từ chối tính hệ 
thống. Do đó, không dễ để xây dựng một 
chương trình giáo dục khi thuật ngữ cho 
các mục tiêu của quá trình giáo dục không 
rõ ràng. 
Tư tưởng giáo dục hiện sinh hướng tới 
phát triển cá nhân quá nhấn mạnh tính cá 
nhân đến mực cực đoan cho nên con người 
khó đạt được sự hài hòa giữa cá nhân và 
cộng đồng. Tuy nhiên, tự do chỉ thực sự 
đạt được trong bối cảnh xã hội của cộng 
đồng. Giáo dục phải làm cho cá nhân có 
trách nhiệm tập thể. Giáo dục là một quá 
trình tương tác và con người chỉ có thể có 
kinh nghiệm khi làm việc cùng nhau trong 
xã hội thông qua đối thoại, tương tác. 
3. Kết luận 
Trái ngược với thế giới quan có trật tự 
đã được trình bày bởi các triết lý truyền 
thống, chủ nghĩa hiện sinh cố gắng giải 
phóng con người khỏi thế giới các mô 
phỏng. Chủ nghĩa hiện sinh làm nổi bật 
tâm lý con người, tự do cá nhân và trách 
nhiệm cá nhân, mạnh dạn định nghĩa con 
người là một cá nhân chịu trách nhiệm tự 
nhận mình trong lĩnh vực của đời mình. 
Trong nỗ lực tiếp cận ban đầu, mọi người 
phải thấy được kết quả rằng họ tạo ra bản 
chất và giá trị của mình mà không sử dụng 
các tiêu chí bên ngoài. Giáo dục hiện sinh 
coi tự do của con người là nhiệm vụ quan 
trọng nhất của nó. Giáo viên hiện sinh 
nhấn mạnh tâm lý của cá nhân và cố gắng 
thúc đẩy sự tự nhận thức và ý thức trách 
nhiệm trong học sinh. Thông qua các lựa 
chọn có ý nghĩa cá nhân, người học có thể 
tự tạo cá tính cho riêng mình. Mục tiêu của 
loại hình giáo dục này không thể được xác 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019) 
112 
định trước, giáo viên và hệ thống giáo dục 
không thể áp đặt nó cho học sinh. Mỗi 
người chịu trách nhiệm về giáo dục của 
riêng mình. Tuy còn nhiều hạn chế như đã 
được vạch ra ở trên, tư tưởng tự do của 
chủ nghĩa hiện sinh đã tác động đến giáo 
dục truyền thống và góp phần từng bước 
đưa đến một quan điểm triết học giáo dục 
mới, phát huy tối đa vai trò chủ thể của 
người học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
E. Muonier. (1970). Những chủ đề triết học hiện sinh. Sài Gòn: Nhị Nùng. 
F.Niezsche. (2003). Zarathustra đã nói như thế, (Trần Xuân Kiểm dịch). Hà Nội: Văn hóa 
thông tin . 
Herbert Marcuse. (2007). One-Dimensional Man. London and New York. 
Jean - Paul – Sartre. (1967). Buồn nôn. Sài Gòn: An Tiêm. 
Jean - Paul – Sartre. (2014). L'Etre Et Le Neant. France: Tel Gallimard. 
Jean Paul Sartre. (2015). Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản. (Đinh Hồng Phúc dịch). 
Hà Nội: Tri Thức. 
Nguyễn Tiến Dũng. (2006). Chủ nghĩa hiện sinh Lịch sử và sự hiện diện ở Việt Nam. 
Thành phố Hồ Chí Minh: TH TP HCM. 
Richard Tarnas. (2008). Qúa trình chuyển biến tư tưởng phương Tây. (Lưu Văn Hy dịch). 
Hà Nội: Văn hóa thông tin. 
Thomas Flynn. (2018). Chủ nghĩa hiện sinh dẫn luận ngắn. (Đinh Hồng Phúc dịch). 
TP.HCM: Tổng Hợp. 
Trần Thái Đỉnh. (2015). Triết học hiện sinh. Hà Nội: Văn học. 
Ngày nhận bài: 07/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019 

File đính kèm:

  • pdfquan_niem_ve_tu_do_cua_con_nguoi_trong_triet_ly_giao_duc_cua.pdf