Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh

Có thể khẳng định rằng chủ nghĩa hiện sinh ra đời là sự phản ánh hiện thực xã hội châu Âu nửa đầu thế

kỷ XX. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa hiện sinh là con người. Chủ nghĩa hiện sinh đã lấy con người

làm trung tâm nghiên cứu và khẳng định sự tự do của con người là tất yếu khách quan. Các nhà hiện

sinh cũng đề cập về thân phận con người trong mối quan hệ với tha nhân. Nếu gạt bỏ đi những hạn chế

nhất định thì chủ nghĩa hiện sinh vẫn có những giá trị nhất định như: chủ nghĩa hiện sinh mang tính

nhân văn và thời sự cấp thiết; chủ nghĩa hiện sinh đã và đang có tác động nhất định đến đời sống con

người trên thế giới.

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trang 1

Trang 1

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trang 2

Trang 2

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trang 3

Trang 3

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trang 4

Trang 4

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trang 5

Trang 5

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh trang 6

Trang 6

pdf 6 trang xuanhieu 1360
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh

Quan niệm về con người qua một số triết gia tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh
 sinh quan tâm đến thân phận con 
người và đề cao sự tự do của mọi cá nhân. 
Các nhà hiện sinh quả cho rằng, chỉ có triết 
học hiện sinh là thứ triết lý duy nhất coi 
trọng sự tự do đích thực của m i cá nhân. 
Tự do “là một đ c tính của con người, tự 
do là cơ sở của cá tính và là điều kiện của 
sự vươn tới. Có tự do mới có cá tính; 
không có tự do con người sẽ không có 
nhân cách mà chỉ là cái bóng của những 
lực lượng tự nhiên” [3, 28]. Các nhà hiệ 
sinh cho rằng, con người vốn dĩ là một 
thực thể tự do vì con người không phải như 
các đồ vật, không phải như thế giới cái 
nhiên. Trong thế giới cái nhiên, mọi đồ vật 
đều phải tuân theo những quy luật của 
thiên nhiên. C n con người là một thực thể 
có đời sống tinh thần, có ý thức mà các 
triết gia hiện sinh gọi là thức giác, trực 
giác. Vì vậy, một m t họ thừa nhận con 
người cũng bị ràng buộc bởi nhiều mối liên 
hệ với thế giới khách quan, m t khác nhờ 
có ý thức nên vẫn tự do. Bản chất của con 
người là tự do. Tính người đích thực chủ 
yếu cũng là tự do. Nhưng khi đi vào cuộc 
sống ở đời là sống với, là quan hệ với 
người khác, với thế giới nên họ bị người 
khác và thế giới lấy mất đi tự do của mình. 
Họ cho rằng, con người mất tự do được 
xuất phát từ sự chi phối của thế giới đồ vật 
QUAN NI M VỀ CON NGƯỜI QUA M T SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA HI N SINH 
52 
và của những quan hệ giữa người với 
người trong xã hội. Con người sống phụ 
thuộc vào thế giới đồ vật, vào cuộc sống 
của người khác là con người sống không tự 
do, là sống đấy nhưng lại là không sống. 
Sartre đ i “Sống ở đời là đi thăm hỏi đời 
mà không bị đời dính dáp, lôi cuốn” [7, 
302] Sartre viết “Con người trước hết là 
một dự phóng sống hoàn toàn theo chủ 
quan, sống cho mình, để thay vì là một 
đám rêu xanh, một cái gì hôi thối, ho c một 
cái bắp cải” [6, 20-21]. Chỉ có tự do là cái 
mình muốn “Tự do không có một mục đích 
nào khác, ngoài mục đích muốn tự thể 
hiện” [5, 52]. Như vậy, Sartre cho rằng, 
con người có quyền được lựa chọn bất kỳ 
cái gì và hành động theo những điều mình 
lựa chọn, đó chính là tự do. Bên cạnh 
Sartre thì Beauvoir cũng là nhà triết học rất 
đề cao sự tự do, thậm chí Beauvoir không 
muốn hy sinh một chút gì cho những quy 
ước của xã hội. Beauvoir cho rằng, tự do 
chính là người phụ nữ tự giải phóng theo 
v ng đời và sẽ trở thành những nhà tư 
tưởng lớn, tự do là tích cực tham gia các 
phong trào kháng chiến mà Sartre và 
Camus đã góp phần khởi xướng. Các nhà 
hiện sinh xem tự do ở đây là tự do vượt ra 
ngoài mọi con đường, mọi mẫu có sẵn. 
Giới hạn của tự do, nếu có, lại nằm ngay 
trong sự tự do tức ngay trong chủ quan của 
tôi chứ nó không có một giới hạn nào 
ngoài nó cả. Sartre viết “Không có giới 
hạn nào do bên ngoài đ t ra ngăn ch n sự 
tự do, nhưng giới hạn đó nằm ngay trong 
bản chất của sự tự do” [8, 619]. Quan niệm 
về tự do tuyệt đối trong chủ nghĩa hiện sinh 
thực sự là trung tâm, là linh hồn của thứ 
triết lý này nên nó thực sự đóng vai tr nền 
tảng để xây dựng những thuyết đề khác 
trong chủ nghĩa hiện sinh. Đó là “sự tự do 
là sự tự do lựa chọn, chứ không phải là tự 
do không lựa chọn. Quả thế, không lựa 
chọn là chọn việc không lựa chọn... và đó 
là tính cách phi lý của sự tự do” [10, 113]. 
Mounier viết “Chúng ta là một sự tự do để 
lựa chọn chúng ta không lựa chọn để làm 
những con người tự do” [9, 172]. Tự do 
được bảo tồn trong bất kỳ hoàn cảnh nào, 
nó biểu hiện ở khả năng lựa chọn quan hệ 
của mình với thế giới, trong sự “liên hệ 
với”, “chung sống với” tha nhân, tôi muốn 
mình tự do thì phải tôn trọng sự tự do của 
kẻ khác, tự do của tôi. Sartre viết “Tôi 
phải đồng thời muốn sự tự do cho tôi và 
muốn sự tự do cho kẻ khác... Tôi không thể 
lấy sự tự do của tôi làm mục đích nếu 
không lấy sự tự do của tha nhân làm mục 
đích” [6, xem 34, 53, 55]. Jaspers cho rằng, 
tự do là tự quyết và tự chọn vì tự do là đ c 
tính của hiện sinh, và cũng như hiện sinh tự 
do là cái chúng ta chỉ có thể chứng nghiệm 
và không có thể giải nghĩa cho người chưa 
tự do. 
Các nhà hiện sinh c n đề cập đến trách 
nhiệm với xã hội, trách nhiệm xã hội gắn 
với tự do lựa chọn. Trách nhiệm của con 
người là trách nhiệm đối với tự do, nhưng 
tự do phải gắn liền với trách nhiệm đạo 
đức. M i cá nhân phải có ý thức, trách 
nhiệm trước bản thân mình, trước người 
khác khi đưa ra sự lựa chọn của mình chứ 
không phải chịu trách nhiệm trước một đối 
tượng nào đó như pháp luật, chuẩn mực xã 
hội, chuẩn mực đạo đức,... “Thế nào là tự 
do? Đó là người ta phải có ý chí tự gánh 
vác trách nhiệm đối với bản thân” [2, 148]. 
Theo quan điểm của các nhà hiện sinh, mọi 
giá trị đạo đức không phải là cái có sẵn, tất 
yếu quy định, ràng buộc con người, mà tất 
cả mọi giá trị đều là kết quả của sự lựa chọn 
của m i cá nhân, là sự sáng tạo nhờ tự do 
của m i người. Sức sáng tạo ra các giá trị 
của con người là vô cùng, bởi m i cá nhân 
VÕ VĂN DŨNG 
53 
là một thế giới tâm hồn phong phú, đa dạng. 
Quan niệ của các nhà hiện sinh về 
thân phận c n ng ời tr ng ối quan hệ tha 
nhân. Các nhà hiện sinh cho rằng, con 
người sống trong xã hội sẽ thuộc về xã hội 
và chịu sự ràng buộc của xã hội. Mối quan 
hệ giữa cá nhân và xã hội, theo cách lý giải 
của chủ nghĩa hiện sinh, chính là mối quan 
hệ giữa cá nhân và tha nhân. Có thể nói 
mối quan hệ cá nhân – tha nhân là một nội 
dung quan trọng của thuyết này. Theo các 
nhà hiện sinh, triết học truyền thống đã gạt 
vấn đề tha nhân sang một bên một cách kì 
lạ mà chỉ đ c biệt chú trọng đến tri thức 
luận, vũ trụ ngoại giới, bản ngã, hồn và 
xác, vật chất và tinh thần, Thượng đế, c n 
vấn đề tương quan giữa ta và người khác ít 
được đ t ra (có chăng chỉ đến chủ nghĩa 
Mác). Như vậy, chủ nghĩa hiện sinh không 
phải là lần đầu tiên trong lịch sử đ t ra vấn 
đề này mà chỉ là sự tiếp tục giải quyết vấn 
đề này. Song triết hiện sinh đã đưa vấn đề 
tha nhân lên hàng những vấn đề chính yếu. 
Các nhà hiện sinh nhấn mạnh, tha nhân là 
nguồn gốc của loài người và gắn ch t với 
con người. Vì tha nhân hiện hữu nên tôi 
phải sống với sự hiện hữu của họ, nghĩa là 
chia sẻ những dự phóng, những cảm tính 
của họ. Sự hiện hữu của tha nhân sẽ làm tôi 
có một ấn tượng về sự thương tổn. Tôi phải 
sống một đời sống riêng của mình bên cạnh 
tha nhân. M i người khép kín trong hiện 
sinh của mình. Cho nên ta không hiểu được 
tha nhân, cũng như không làm cho họ hiểu 
ta. Từ đó thấy rằng, những hiểu lầm, những 
phán đoán bất công, sai lạc chỉ có một 
nguyên nhân là tha nhân và tai họa của con 
người chính là sự hiện hữu của tha nhân. 
Theo Marcel, “kẻ khác không phải là một 
xã hội, mà là một Mày, một tha nhân, mà 
với họ tôi phải thôi tự xưng tôi là “Tôi - 
Tao”” [11, 54]. Jaspers cho rằng, con 
người không thể đơn độc tiến tới hiện 
hữu. Ông cho rằng, chúng ta chỉ sống với 
tha nhân, mình tôi, tôi chẳng là gì cả. Ông 
đề cao sự thông cảm với tha nhân là khát 
vọng cuối cùng của con người. Sartre nhìn 
nhận cuộc sống với tha nhân là một cuộc 
sống chẳng những không đem lại cho một 
vinh quang hay một điều gì dễ chịu, mà 
c n là một bất hạnh lớn lao. “Sự kiện về 
tha nhân là không thể chối cãi được và như 
đánh hẳn vào tim tôi. Tôi biết thế vì chính 
tôi thấy khó chịu. Tại tha nhân mà tôi luôn 
lâm nguy” [8, 133]. Theo Sartre, trong sự 
hiện hữu của mình, con người khám phá ra 
sự tồn tại của tha nhân và tha nhân là điều 
kiện cho sự hiện hữu của mình. Và con 
người tự nhận thức về bản thân thông qua 
nhận thức tha nhân, ta nhận ra sự tồn tại của 
tha nhân giống như tha nhân nhận ra sự tồn 
tại của ta vậy. Như vậy, giữa ta và tha nhân 
có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với nhau. 
M c dù, tha nhân là kẻ cướp mất tự do, 
cướp mất vũ trụ của tôi nhưng tha nhân là 
có đó, nó cùng tồi tại song hành với sự tồn 
tại của tôi và tôi phải chấp nhận nó. 
3. Giá trị của chủ nghĩa hiện sinh về 
con người 
Trước hết, chúng ta phải khẳng định 
rằng, chủ nghĩa hiện sinh là một trong 
những học thuyết triết học ảnh hưởng lớn 
đến đời sống xã hội phương Tây vào những 
năm 40 - 60. Chủ nghĩa hiện sinh đã góp 
phần đưa con người trở về với thế giới con 
người, E. Mounier nhận xét “Triết hiện 
sinh, trước hết là một triết lý về con 
người... về vận mệnh con người” [9, 43]. 
Chủ nghĩa hiện sinh chú trọng đến con 
người và xem vấn đề con người là hệ quy 
chiếu cho mọi vấn đề khác. “Không có một 
vũ trụ nào khác, ngoài vũ trụ nhân loại và 
vũ trụ của chủ quan tính nhân loại” [10, 
51]. Con người trong chủ nghĩa hiện sinh 
QUAN NI M VỀ CON NGƯỜI QUA M T SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA HI N SINH 
54 
không phải là con người phổ quát như 
Socrates, Aristotle hay Descartes, mà là 
con người có xương thịt đang hiện hữu 
trong xã hội. Chủ nghĩa hiện sinh thể hiện 
tính nhân văn trong quan niệm về con 
người. Họ đã khắc họa khá thành công 
chân dung về con người trong thời đại 
khủng hoảng, để từ đó đề cao giá trị làm 
người của m i người; đồng thời là tiếng 
nói tố cáo hiện thực xã hội. 
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời và tồn tại 
trong thời gian dài đã có sức hút đối với số 
đông dân chúng, phần lớn trong đó là giới 
trẻ. Các nhà hiện sinh đã khắc hoạ được 
những khát vọng của con người để từ đó 
nêu lên những vấn đề cần suy nghĩ ở con 
người đối với xã hội. Các nhà hiện sinh đã 
xây dựng nên bản thể luận về con người, 
cho thấy họ mong muốn khám phá đời 
sống tâm hồn của con người, đây là điều 
đáng trân trọng. 
Các nhà hiện sinh đã khắc hoạ được 
hình ảnh con người cá nhân. Họ cho rằng, 
thế giới này như thế nào không quan trọng, 
cái quan trọng nhất là thế giới có ý nghĩa 
như thế nào đối với con người. Chủ nghĩa 
hiện sinh làm sáng tỏ được phần nào những 
mâu thuẫn của thời đại thông qua những 
mâu thuẫn trong m i cá nhân. “Theo chủ 
nghĩa hiện sinh, không có ai và không có gì 
có thể ràng buộc con người hành xử rập 
khuôn, mà không khác đi; không một chuẩn 
mực đạo đức nào thống trị con người; toàn 
bộ hành vi của con người trong những tình 
huống cụ thể được quyết định bởi lựa chọn 
tự do” [4, 96]. 
Khác với các trào lưu triết học khác, 
triết học hiện sinh không chỉ dừng lại ở 
những lý thuyết, lý luận mà đi vào đời sống 
hàng ngày. Nó trở thành một phong trào 
mang tính hiện thực làm rung chuyển đời 
sống xã hội phương Tây. Các nhà hiện sinh 
c n là những nhà hoạt động xã hội tích cực 
đấu tranh cho h a bình và công lý. Quan 
điểm chống chiến tranh, chống cái ác là 
quan điểm hết sức tiến bộ của các nhà hiện 
sinh để bảo vệ nhân loại. Các nhà hiện sinh 
đề cao tự do, tự do lựa chọn. Tự do hiện 
sinh thể hiện rõ trong tự do lựa chọn một 
nghề nghiệp, một hướng đi, một ch đứng 
trong cuộc sống, nhằm đạt tới ch thực 
nhất của cá nhân. 
Trong hệ thống tư tưởng của mình, 
phần lớn các nhà hiện sinh đều thông qua 
việc xác định đối tượng nghiên cứu là con 
người, để bày tỏ thông điệp mang tính 
nhân văn về cuộc sống. Nếu chúng ta biết 
lược bỏ những lời lẽ quá khích, cực đoan, 
thì sẽ tìm thấy những tư tưởng nhân văn 
đáng trân trọng trong đó. Các nhà hiện sinh 
đã khắc hoạ rõ nét hình ảnh con người cá 
nhân với những trăn trở, suy tư, giằng xé, 
lo âu về số phận của mình. Các nhà hiện 
sinh từ M. Heidegger, K. Jaspers, đến J. P. 
Sartre, A. Camus đã diễn tả được xã hội 
phương Tây lúc bấy giờ - một xã hội tha 
hoá, biến động. Các nhà hiện sinh hy vọng 
sẽ gợi mở những suy nghĩ nghiêm túc về 
trách nhiệm của bản thân trước những vấn 
đề liên quan đến vận mệnh m i người và 
lịch sử nhân loại. 
Bên cạnh những giá trị thì chủ nghĩa 
hiện sinh vẫn c n những hạn chế nhất định 
như; Cách lý giải của chủ nghĩa hiện sinh 
về bản chất con người chứa đầy mâu thuẫn 
khi đã tách con người ra khỏi điều kiện lịch 
sử - xã hội nhất định. Mác - Lênin chỉ rõ 
“Con người không phải là một sinh vật 
trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới. 
Và bản chất con người không phải là một 
cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng 
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất 
con người là tổng h a những mối quan hệ 
xã hội. Không có con người trừu tượng 
VÕ VĂN DŨNG 
55 
thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử xã hội để có 
thể tự tạo cho mình một bản chất” [1; 11]; 
Nếu như chủ nghĩa hiện sinh đem đối lập 
cá nhân với xã hội, với tha nhân với những 
luận điểm như tha nhân là địa ngục, tha 
nhân nhìn tôi như muốn nuốt chửng tôi, v.v 
thì C. Mác và Ph. Ăngghen không tác cá 
nhân ra khỏi xã hội, đồng thời cũng không 
đối lập cá nhân với xã hội, mà luôn luôn 
trình bày cá nhân trong quan hệ xã hội nhất 
định; Quan niệm về tự do, lựa chọn và 
trách nhiệm chủ nghĩa hiện sinh cũng bộc 
lộ một số hạn chế như (1) tự do mà các nhà 
hiện sinh quan niệm có tính chất siêu hình, 
vì đó là thứ tự do vô hạn, không được đ t 
trong mối liên hệ biện chứng giữa tự do và 
tính tất yếu. (2) Tự do mà các nhà hiện sinh 
quan niệm là thứ tự do mơ hồ không được 
đ t trên cơ sở hiện thực, vì thế nó chỉ là 
những ước vọng của con người; Chủ nghĩa 
hiện sinh là tiếng nói tố cáo hiện thực xã 
hội, đề cao giá trị con người, nhân vị, tự do 
của con người nhưng chưa vạch ra con 
đường đấu tranh cách mạng để xoá bỏ hiện 
thực xã hội ấy. 
4. Kết luận 
Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa 
hiện sinh đề cao vấn đề tồn tại người, đi 
vào những phương diện sâu xa, đ c thù 
nhất của con người. Chủ nghĩa hiện sinh 
khẳng định, tự do của con người là một sự 
tất yếu của lịch sử. Sự xuất hiện của chủ 
nghĩa hiện sinh là một phản ứng mãnh liệt 
của những số phận con người đang đi tìm 
lại chính mình đang bị lãng quên trong xã 
hội. Chính vì thế chủ nghĩa hiện sinh trở 
thành một trào lưu mang tính nhân văn của 
triết học phương Tây hiện đại. Nếu gạt bỏ 
những hạn chế nhất định thì chủ nghĩa hiện 
sinh vẫn c n những giá trị lịch sử bổ ích 
cho ngày nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. C. Mác và Ăngghen. Ph T àn tập (1993), 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 3. 
2. Friđrich Nietzsche (2006), Buổi h àng hôn 
của những thần t ợng, Nguyễn Hữu Hiệu 
(dịch và giới thiệu), Văn Học, Hà Nội. 
3. Đ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh 
chủ nghĩa, Nxb Văn Học, Hà Nội. 
4. J. M. Melvil (1997), ác c n đ ờng của Triết 
học ph ơng Tâ hiện đại, Đinh Ngọc Thạch – 
Phạm Đình Nghiệm (biên dịch), Nxb Giáo 
Dục, Sài G n. 
5. Sartre. J. P, Buồn Nôn, Nxb Văn học, Hà Nội 
1994. 
6. Sartre. J. P (1968), Hiện sinh, ột nhân bản 
thu ết, Thụ Nhân (dịch), Nxb Thế sự, Sài G n. 
7. Sartre. J. P (1965), Kín cửa, Nxb Giao Điểm, 
Sài Gòn. 
8. Sartre. J. P (1965), Hữu thể và h vô, Nxb 
Giao Điểm, Sài G n. 
9. M. Mounier (1965), Những chủ đề triết học 
hiện sinh, Thụ Nhân (dịch) Nxb Nhị Nùng, 
Sài Gòn. 
10. P. Foulquié (1969), hủ nghĩa hiện sinh, Thụ 
Nhân (dịch), Thế Sự, Sài G n. 
11. R. Campbell, Tì hiểu chủ nghĩa hiện sinh, 
(bản dịch của Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn 
Hiến Lê), Nxb Tao Đàn, Sài G n. 
Ngày nhận bài: 12/4/2016 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng 20/8/2017 

File đính kèm:

  • pdfquan_niem_ve_con_nguoi_qua_mot_so_triet_gia_tieu_bieu_cua_ch.pdf