Quan niệm của William James về chân lí
Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học điển hình nhất ở Mĩ, được xem
là nét đặc trưng của văn hóa Mĩ, gắn liền với sự phát triển của một siêu cường Mĩ. Vấn đề
chân lí là một nội dung cốt lõi của triết học thực dụng. Trong các nhà triết học thực dụng
Mĩ, William James là người đã phát triển lí thuyết chân lí thành một hệ thống lí luận nền
tảng của chủ nghĩa thực dụng. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến quan niệm và những
đóng góp hết sức độc đáo của W.James về chân lí
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm của William James về chân lí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm của William James về chân lí
ác dụng đối với con người: “Giá trị cơ bản của quan niệm đúng là do đối tượng của quan niệm có tầm quan trọng với thực tế của chúng ta đẻ ra” [3;345]. James nhấn mạnh, không phải quan niệm phù hợp với đối tượng là chân lí, chỉ khi đối tượng hữu dụng với con người, thì quan niệm đó mới là chân lí. Vì vậy tính hữu dụng đối với con người trở thành tiêu chuẩn của chân lí. Theo James, sở dĩ con người theo đuổi chân lí vì “bổn phận tìm chân lí là một phần của bổn phận làm điều có ích, giống như chúng ta phải tìm sức khỏe vì sức khỏe là có ích” [5;311]. Vì thế, ông cho rằng một quan niệm chỉ cần đem lại lợi ích, thành công cho con người thì bất kể nó phản ánh thực tế khách quan như thế nào, ngay cả là tín ngưỡng tôn giáo, đều được coi là chân lí. Ngược lại, khi ông bàn về những quan niệm không đem lại tác dụng cho con người, dù là những quan điểm đúng, thì trách nhiệm của chúng ta là né tránh chân lí. Quan niệm của James khi đồng nhất chân lí với tính hữu dụng đã thể hiện phần nào tâm lí vụ lợi, chạy theo lợi ích cá nhân trong xã hội tư sản. Có thể nói, theo quan điểm của James, chân lí gắn với việc xác định niềm tin của con người, chú ý hiệu quả thực tế, thỏa mãn nhu cầu, lợi ích, sự thành công của cá nhân. Chân lí tồn tại tương đối với con người, với kinh nghiệm luôn biến đổi của con người, chân lí là do con người tạo ra theo 74 Quan niệm của William James về Chân lí nhu cầu của mình, dùng làm thước đo mức độ thỏa mãn nhu cầu của mình. Việc nhấn mạnh vai trò sáng tạo ra chân lí của con người, hay vấn đề chân lí gắn với con người là không sai. Tuy nhiên cái sai trong quan niệm này là tuyệt đối hóa vai trò sáng tạo ra chân lí của con người, đến mức cho rằng chân lí đều là sản phẩm sáng tạo chủ quan của con người mà không coi trọng thực tiễn khách quan. 2.3. Tiêu chuẩn của chân lí Trong khi khẳng định tính hiệu quả làm tiêu chuẩn của chân lí, ông đưa ra phạm trù “thực tại”, coi chân lí là sự phù hợp với thực tại. Quan điểm này rất gần với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm trù thực tiễn và vai trò của thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lí. Thực chất phạm trù “thực tại” và “phù hợp với thực tại” có ý nghĩa đặc biệt trong lí thuyết chân lí của James, nó được xem là tiêu chuẩn để phân biệt chân lí và sai lầm: “Chân lí là một tính chất của một số ý tưởng của chúng ta. Nó có nghĩa là “sự phù hợp với thực tại”, cũng như sai lạc là sự không phù hợp với thực tại”. Các nhà thực dụng lẫn các nhà duy trí đều chấp nhận định nghĩa này như là chuyện đương nhiên. Họ chỉ bất đồng với nhau về cách hiểu chính xác thuật ngữ “phù hợp” và “thực tại” nghĩa là gì, khi thực tại được coi là cái mà các ý niệm của chúng ta phải phù hợp với” [5;482]. Theo cách hiểu của James, phạm trù “thực tại” không phải là hiện thực khách quan với sự sống động của sự vật mà mang ý nghĩa chủ quan: “Thực tại chỉ là quan hệ tương đối với đời sống tình cảm và đời sống năng động của chúng ta, đó là ý nghĩa duy nhất của danh từ người ta đã nói trong thực tiễn. Nền tảng và khởi nguồn của mọi thực tại, bất kì được xem xét theo quan điểm tuyệt đối hoặc quan điểm thực tiễn, đều là chủ quan, cũng tức là bản thân chúng ta” [1;98]. Qua cách giải thích về “thực tại”, James cố gắng hòa lẫn giữa yếu tố chủ quan và khách quan, giữa kinh nghiệm chủ thể và thực tại khách quan. Xuất phát từ chủ nghĩa kinh nghiệm, James lí giải một cách chủ quan về phạm trù “thực tại”, thực tại có nghĩa là các sự kiện cụ thể, hay các loại sự vật trừu tượng và các mối quan hệ được nhận ra giữa chúng với nhau bằng trực giác. Và nghĩa thứ ba là các sự vật mà các ý niệm mới của chúng ta phải quan tâm, đó là toàn bộ các chân lí khác mà chúng ta đã có. Nhưng thế nào là sự “phù hợp” với ba loại thực tại theo nghĩa này? Trước hết, phù hợp là sự mô tả theo, ví dụ về từ “đồng hồ” có thể thay thế cho hình ảnh của ý thức về hoạt động của nó, và trong rất nhiều thực tại khác, các ý niệm của chúng ta chỉ có thể là những biểu tượng chứ không phải là những bản sao chép. Sự phù hợp sẽ chỉ có nghĩa, đó là một sự kiện không có gì mâu thuẫn từ phía trước cản đường khiến tư tưởng của chúng ta không dẫn dắt đến một nơi khác. Vì vậy điều cốt yếu là tiến trình được dẫn dắt, bất cứ ý niệm nào giúp chúng ta xử lí về thực tại, làm cho đời sống chúng ta phù hợp và thích nghi với môi trường, đều sẽ được coi là phù hợp để khẳng định thực tại đó là đúng. Vì vậy, theo quan điểm của James, cái gọi là phù hợp với thực tại là sự phù hợp năng động của chủ thể đối với khách thể. Qua đây, ông cũng bác bỏ thuyết phản ánh luận, cho rằng một quan niệm là chân lí cần phải mô tả thực tại. Các ý niệm sẽ phải phù hợp với loại thực tại nào thì được coi là các ý niệm đúng trong sự kiểm chứng cơ bản của nó, việc theo đuổi các ý niệm đúng là bổn phận hàng đầu của con người. Sở hữu chân lí không phải là một cái đích tự tại, mà chỉ là một phương tiện mở đầu để hướng tới các sự thỏa mãn khác của đời sống, sự thỏa mãn đó mà đích đến là hiệu quả và sự thành công trong hoạt động của con người. Giá trị thực tiễn của các ý niệm đúng vì thế chủ yếu xuất phát từ tầm quan trọng thực tiễn của các đối tượng của chúng đối với con người. Rõ ràng, quan niệm của James về tiêu chuẩn của chân lí chẳng những đã phủ định tính khách quan, mà còn làm cho việc tìm ra tiêu chuẩn chung nhất về chân lí giữa mọi người là điều không thể. Quan niệm này là cơ sở 75 Nguyễn Văn Thỏa cho việc con người theo đuổi hiệu quả, lợi ích, sự thành công của cá nhân, bởi mỗi người đều xem đó là tiêu chuẩn chân lí của mình. Từ cách lí giải chân lí là sự phù hợp với thực tại, ông đi đến khẳng định tiêu chuẩn để kiểm tra sự phù hợp đó chính là tính hiệu quả. Ông đồng nhất chân lí với tính hữu dụng: “Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lí; cái gì là chân lí, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với nhau” [4;37]. Chân lí là hữu dụng, hữu dụng là chân lí, đó là quan điểm cơ bản trong thuyết chân lí của James. Ông cho rằng không phải cứ quan niệm phù hợp với đối tượng là chân lí, mà chỉ khi nào đối tượng hữu dụng với con người, thì quan niệm đó mới là chân lí. Do vậy, suy cho cùng quan niệm của ông không phải lấy phù hợp với đối tượng là chân lí, mà lấy tính hữu dụng của quan niệm đối với con người làm tiêu chuẩn của chân lí. Sai lầm của ông ở chỗ đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lí, lấy hiệu quả, tính hữu dụng, sự thành công là tiêu chuẩn duy nhất của chân lí. Như vậy, trong quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lí, chúng ta thấy có sự thống nhất với khái niệm chân lí. Việc đồng nhất chân lí với hiệu quả, tính có ích, sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn của chân lí. Trong quan niệm về tiêu chuẩn của chân lí, chúng ta thấy có một số khía cạnh tích cực. James đưa ra phạm trù “thực tại”, chân lí là sự phù hợp với thực tại, rất gần với quan điểm thực tiễn, tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm tra chân lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tuy nhiên, sai lầm của ông là đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lí. Ngay cả phạm trù thực tại cũng không phải là khách quan mà mang tính chủ quan, chân lí là sự thỏa mãn cá nhân, giúp con người đạt được thành công, vì vậy mỗi người dựa trên mục đích lợi ích của mình đều có thể theo đuổi tiêu chuẩn chân lí khác nhau. Việc xác định tiêu chuẩn của chân lí như vậy có phần chủ quan, tùy tiện và phần nào thể hiện quan điểm của giai cấp tư sản, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. 2.4. Con đường nhận thức chân lí James đã phân tích con đường nhận thức chân lí như một quá trình biện chứng, được thực tiễn kiểm nghiệm. Chân lí là một quá trình phát sinh, là một quá trình chứng thực và kiểm nghiệm tính hiệu quả trong thực tiễn. Nhận thức chân lí là một quá trình, không phải tĩnh tại, bất biến mà mang tính cụ thể, tương đối, được sinh ra từ quan niệm thông qua quá trình kiểm chứng tính hiệu quả của nó: “Tính chân thực của chân lí trên thực tế là một sự kiện hoặc quá trình, nó chứng thực quá trình bản thân nó, là quá trình chứng thực của nó, tính hữu hiệu của nó là quá trình làm cho nó sinh ra hiệu quả” [1;103]. Quá trình nhận thức chân lí được thực hiện thông qua sự kiểm chứng tính hiệu quả bằng thực tiễn. Chân lí tồn tại và cần phải được kiểm nghiệm, chứng thực trong thực tiễn. Thực tiễn hay “thực nghiệm” là tiêu chuẩn kiểm nghiệm của chân lí. Nhưng “thực tiễn” ở đây không phải là thực tại khách quan, sự “thực nghiệm” không phải là quá trình thông qua thực tiễn khách quan để kiểm nghiệm tính qui luật nội tại của sự vật khách quan, mà chỉ là kiểm nghiệm quan niệm có tạo ra hiệu quả thực tế làm cho con người thỏa mãn hay không? Có làm cho con người được lợi ích và thành công hay không? W.James phân tích về sự chứng thực trực tiếp và gián tiếp của chân lí. Cơ sở của sự chứng thực đó là niềm tin, chỉ cần niềm tin vào chân lí, vì niềm tin có tác dụng, mọi cái chúng ta biết là phù hợp với niềm tin. Nhấn mạnh vai trò của niềm tin, ông cho rằng chân lí tồn tại phần lớn dựa trên hệ thống tin tưởng. Các tư tưởng và niềm tin của chúng ta được “thông qua”, miễn là không có gì chống lại chúng, giống như tấm ngân phiếu được thông qua nếu không ai từ chối nó. James đưa ra kết luận: “các tiến trình chứng thực một cách gián tiếp hay mặc nhiên cũng đúng không kém 76 Quan niệm của William James về Chân lí gì các tiến trình chứng thực hoàn toàn” [5;484]. Ông thừa nhận rằng tính chân lí của quan niệm không cần mỗi người phải đi chứng minh, chỉ cần người khác chứng thực rồi, thì hoàn toàn có thể trao đổi chân lí dựa trên nhu cầu của người sử dụng chúng, đó là cách chứng thực gián tiếp. Chân lí là quá trình, chân lí do chân lí trước đây tạo nên, vì vậy “chúng ta chưa kiểm chứng xong một chân lí thì đã có một triệu chân lí phát sinh trong cuộc đời chúng ta rồi” [5;311]. Do vậy, chân lí tồn tại dựa vào sự tin tưởng, tính chân thực của chân lí được tạo ra từ tính hiệu quả, tính hiệu quả tạo nên sự tồn tại của chân lí. Từ quan niệm cho rằng chân lí là quá trình không ngừng được chứng thực, James đã khẳng định chân lí mang tính tương đối và tính cụ thể, không có chân lí tuyệt đối, phổ biến. Ông nhấn mạnh việc coi chân lí thực dụng cung cấp một công cụ, phương tiện để con người đạt được mục đích. Quan niệm của W.James đã khẳng định con đường nhận thức chân lí là một quá trình không phải tĩnh tại, bất biến mà không ngừng được kiểm chứng thông qua thực tiễn. Trong quan niệm của ông, chân lí không phải là mục đích cuối cùng của nhận thức mà diễn ra cùng với quá trình nhận thức. Trong quá trình nhận thức, một quan niệm thể hiện tính hiệu quả thì đó là chân lí. Theo quan điểm này, quá trình nhận thức chân lí không ngừng biến đổi và cần phải được kiểm chứng liên tục. Đây là quan điểm khá mới về con đường nhận thức chân lí, đó cũng là đóng góp của ông cho lí luận nhận thức của chủ nghĩa thực dụng. Mặc dù vậy, quan điểm của James cũng không tránh khỏi hạn chế trong cách lí giải về sự “chứng thực” chân lí thông qua “thực nghiệm” hay “thực tiễn”, đó không phải là thực tiễn khách quan mà là hiệu quả thực tế của một quan niệm giúp con người được thỏa mãn về lợi ích hay thành công. Cũng đề cập tới thực tiễn, nhưng nội dung của thực tiễn lại khác cơ bản về chất so với quan niệm về chân lí trong triết học Mác - Lênin. Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin, chân lí là quá trình nhận thức đi từ trực quan sinh động (thực tiễn) đến tư duy trừu tượng, và từ tư tuy trừu tượng đến thực tiễn đó là biện chứng của sự nhận thức chân lí. Vấn đề thực tiễn trong triết học Mác vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc của quá trình nhận thức chân lí. Theo đó, thực tiễn là thực tại khách quan, độc lập với ý thức con người và quyết định ý thức của con người. Trong khi đó, vấn đề thực tại trong triết học thực dụng của James chẳng qua cũng chỉ là kinh nghiệm thực tiễn mang tính chủ quan của con người, ở đó tính hữu dụng đối với cá nhân trở thành tiêu chuẩn của chân lí. Đây là khác biệt cơ bản của triết học Mác - Lênin và triết học thực dụng. Mặt khác triết học Mác - Lênin khẳng định chân lí vừa có tính tương đối vừa có tính tuyệt đối, thì W.James lại phủ nhận tính tuyệt đối của chân lí và xem chân lí chỉ thuần túy mang tính tương đối với hiệu quả, lợi ích của con người. Nếu triết học Mác - Lênin khẳng định tiêu chuẩn khách quan của chân lí thì triết học thực dụng của W.James lại phủ nhận tiêu chuẩn khách quan, đồng thời nhấn mạnh tính chủ quan, nhận tạo của chân lí, từ đó biện hộ cho sự tồn tại của tôn giáo và xem sự tồn tại đó là có ích cho con người. 3. Kết luận Quan niệm của W. James về chân lí có một số giá trị nhất định. Đó là sự cố gắng đi tìm những kiến giải mới trong nhận thức triết học. Đề cập đến thực tiễn, và giải quyết những vấn đề thực tiễn, phục vụ cho con người là đích hướng tới của triết học thực dụng. Ở một góc độ nào đó quan niệm của ông khẳng định quan điểm thực tiễn, khẳng định triết học không xa rời thực tiễn mà luôn xuất phát và phục vụ cho thực tiễn, qua đó cũng thể hiện tinh thần nhân văn, vì con người 77 Nguyễn Văn Thỏa và phục vụ con người. Đây là đóng góp cơ bản của W.James về vấn đề chân lí. Ở một khía cạnh nào đó, quan niệm về chân lí của James tỏ ra “phù hợp” khi cho rằng tính hiệu quả là tiêu chuẩn của chân lí hướng tới, đặc biệt nó phù hợp với thực tiễn xã hội đương đại khi những giá trị sống đang thay đổi theo hướng chú trọng nhiều hơn đến những giá trị vật chất, đến năng suất lao động và hiệu quả công việc, đến thực tiễn, có phần “thực dụng” và xem đó là yếu tố quyết định, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Lí giải quan niệm của James về chân lí - một đại biểu điển hình nhất của chủ nghĩa thực dụng, giúp chúng ta có cơ sở khách quan để làm rõ những ảnh hưởng của trường phái triết học này cả về lí luận và thực tiễn, ở các nước phương Tây nói chung và ở Việt Nam nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vương Ngọc Bình, 2004. Uyliam Giêmxơ. Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. [2] Lưu Phóng Đồng, 1994. Triết học phương Tây hiện đại, tập 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [3] Lưu Phóng Đồng, 2004. Giáo trình hướng tới thế kỉ 21: Triết học phương Tây hiện đại. Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội. [4] U.K.Melvil,1997. Các con đường của triết học phương Tây hiện đại. Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm (dịch). Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. [5] U.K.Melvil, 2004. Lịch sử triết học và các luận đề. Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn Hy (dịch). Nxb Lao động, Hà Nội. ABSTRACT The opinion of William James on ‘truth’ Pragmatism, a commonly accepted philosophy in the USA, is considered to be a characteristic feature of American Culture and is oftentimes associated with the country’s development as a superpower. The concept of truth is the most essential aspect of pragmatic philosophy. Of the American pragmatism philosophers, William James is recognized as having developed the theory of the truth into a fundamental theoretical system of pragmatism. In this article, the author takes a close look at James’ unique opinions and contributions to the concept of truth. 78
File đính kèm:
- quan_niem_cua_william_james_ve_chan_li.pdf