Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay
Học thuyết triết học của Lão Tử có nội dung hết sức phong phú, bao gồm cả vấn đề bản thể luận, nhận
thức luận, đặc biệt là vấn đề phép biện chứng và các vấn đề đạo đức nhân sinh. Trong các tư tưởng triết
học của ông, không thể không nói đến quan niệm về mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên.Theo
đó, Lão Tử đã nêu lên tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa giữa con người và giới tự nhiên; về sự gìn giữ,
bảo vệ giới tự nhiên. Những quan niệm ấy có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc trong việc ứng xử một
cách nhân văn đối với giới tự nhiên và trong việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay
hiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hóa theo lẽ tự nhiên, không cần biết đến ý nghĩa, mục đích của bản thân chúng, như cá bản thân nó là bơi lội dưới nước, chim là bay trên trời. Nghĩa là sống với cái vốn có tự nhiên, mộc mạc, thuần phác của mình, không trái với quy luật của tự nhiên, không can thiệp vào quá trình vận hành của các vật khác, biết chấp nhận và thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi trường. Có thể nói rằng, Lão Tử cố gắng tìm ra quy luật khách quan trong sự biến hóa của vạn vật, hướng mọi người hành động theo quy luật tự nhiên. Nhưng ông cho rằng, con người chỉ thích ứng với quy luật tự nhiên một cách bị động, đứng trước tự nhiên con người không cần làm gì cả.Như vậy, ông đã dẫn người ta đến chỗ không cần phải tích cực đấu tranh, cải tạo tự nhiên. Như vậy, theo Lão Tử, tự nhiên là khách thể, khác với chủ thể con người, con người chỉ có thể theo nó chứ không thể ngược lại được. Ở phương diện này, Lão Tử đã hạ thấp tính năng động chủ quan của con người, con người không nên can thiệp vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên; mà trái lại, con người phải phục tùng giới tự nhiên, chịu khuất phục trước tự nhiên. Thực chất của quan niệm này là ở chỗ: “Người phỏng theo lẽ của đất, đất phỏng theo lẽ của trời, trời phỏng theo lẽ của đạo, đạo phỏng theo lẽ của tự nhiên” (Đạo đức kinh, Chương 25). Sở dĩ như vậy, bởi vì, theo Lão Tử, đạo chính là quy luật, quy luật đó không phải cái gì khác mà chính là lẽ tự nhiên. Bản thân lẽ tự nhiên là chuẩn mực, con người chỉ cần noi theo nó là đủ, chứ không cần phải làm gì khác ngoài tự nhiên. Do vậy, con người và loài người không cần phải phát triển đi đâu xa cả, mà chính là cần trở về với cái nguyên sơ của nó, trở về với tự nhiên. Song, cũng cần phải thấy rằng, thời Lão Tử sống là thời người ta chỉ biết tàn phá tự nhiên, biết chiến tranh liên miên đẫm máu để tranh giành ngôi báu, chỉ biết đặt ra những phép tắc phi nhân, vị kỷ. Do vậy , trong quan niệm của ông về sự hài hòa, thống nhất với tự nhiên đã lóe lên một tia sáng lấp lánh của tư tưởng thiết tha với sự bảo tồn và phát triển của giới tự nhiên. b. Sự giữ gìn, bảo vệ của con người đối với giới tự nhiên “Vô vi” cũng còn có ý nghĩa là bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình và của vạn vật.Lão Tử chủ trương ngăn chặn, bài trừ những gì làm tổn hại đến bản tính tự nhiên của vạn vật, mà trước hết là chống lại sự xâm hại của con người và xã hội đối với giới tự nhiên. Ông nói: “Ta có ba của báu hằng nắm giữ và bảo vệ: một là từ ái, hai là tiết kiệm và ba là không dám đứng trước thiên hạ” (Đạo đức kinh, Chương 67). Vì từ ái cho nên không cưỡng ép vật, vì tiết kiệm cho nên không thái quá, không 76 trái với đạo tự nhiên và vì không dám đứng trước thiên hạ cho nên tự nhiên, thuần phác, không trái với tạo hóa, không áp chế nhau, không ai lấy không ai bỏ, không ai hơn không ai kém. Từ đó, Lão Tử phản đối mọi chủ trương “hữu vi”, bởi vì “hữu vi” chỉ khiến cho con người làm xáo trộn mọi trật tự của tự nhiên, con người bị ràng buộc bởi những danh vọng, ham muốn và mất đi bản tính tự nhiên của chính mình. Lão Tử viết: “Thánh nhân thường khéo cứu người nên không có người bỏ đi, thường khéo cứu vật nên không có vật bỏ đi” (Đạo đức kinh, Chương 44). Cho nên: “Thánh nhân bỏ nhiều, bỏ thừa, bỏ quá” (Đạo đức kinh, Chương 29). Từ quan điểm “vô vi”, Lão Tử đã rút ra những đức tính trong nghệ thuật sống của con người là: từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan dung, tri túc và kiến vi. Nhờ đó, con người luôn giữ được sự đồng nhất, hài hòa, chất phác với “đạo” tự nhiên, con người hòa mình vào khoảng không, nhưng lại biết dành cho người khác một chỗ mà không làm mất chỗ của mình. Đã là con người thì cần phải biết giảm ánh sáng của mình để có thể đắm mình vào bóng tối của kẻ khác. Trong học thuyết “vô vi”, Lão Tử còn cho rằng, “vô vi” không chỉ là sống một cách tự nhiên, thuần phác, không ham muốn dục vọng mà không cần đến cả tri thức, văn hóa, kỹ thuật và cả sự tiến bộ xã hội. Ông nói: “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (Đạo đức kinh, Chương 18). Bởi theo ông, hiểu biết càng nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều càng ham muốn, tranh đoạt, chiếm đoạt, xâm phạm lẫn nhau, trái với đạo tự nhiên. Vì vậy: “ Theo học thì càng thêm phiền phức, mà theo đạo thì ngày càng bớt, bớt rồi thì lại bớt, bớt đến mức vô vi” (Đạo đức kinh, Chương 48). Cho nên, tốt nhất người ta hãy: “bỏ hẳn cái học đi thì không lo lắng gì cả, hiện ra cái nõn nà, ôm lấy cái chất phác, ít lòng tư, bớt lòng dục” (Đạo đức kinh, Chương 20). Quan điểm về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên còn được thể hiện khi Lão Tử chủ trương trị nước bằng đạo “vô vi”, tức là trả bản chất con người về cho giới tự nhiên, không được trái với tạo hóa, phải gạt bỏ hết những gì trái với tự nhiên, trái với bản chất tự nhiên của con người, vượt quá bản tính, khả năng, nhu cầu tự nhiên, cần thiết của con người. Con người cần phải trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên thủy, chất phác, không ham muốn, không dục vọng, không lễ giáo, không thể chế, không pháp luật, không bị ràng buộc bởi truyền thống đạo đức, văn hóa, không cần tri thức, trí xảo, văn hóa, kỹ thuật, mà theo bản tính, khả năng sở thích tự nhiên, mọi người tự làm những việc mà mỗi người cần phải làm một cách tự nhiên. Lão Tử nói: “Thiên hạ nhiều kỵ húy thì dân càng nghèo, dân nhiều khí giới nhà nước càng loạn, người nhiều tài khéo vật xảo càng thêm, pháp luật càng tăng trộm cướp càng nhiều” (Đạo đức kinh, Chương 57). Cho nên phải “dứt thánh, bỏ trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa dân quay về lòng hiếu thảo và tự ái; dứt kỹ xảo, bỏ lợi trộm cướp không còn” (Đạo đức kinh, Chương 19). Kết quả là: “Không chuộng hiền khiến dân không tranh, không trọng vật nên dân không trộm cướp, không thấy vật đáng ham khiến lòng dân khỏi loạn. Cho nên lối trị dân của bậc thánh nhân là làm cho dân lòng trống, bụng no, ý chí yếu, xương cốt mạnh, thường khiến dân không biết, không muốn” (Đạo đức kinh, Chương 3). Hơn nữa, Lão Tử còn chủ trương đưa đức tính con người trở lại với thời kỳ trẻ thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông nói: 77 “Không xa đức trở lại thời kỳ trẻ thơ”. Ông chủ trương “không làm cho dân sáng mà làm cho dân ngu” (Đạo đức kinh, Chương 65). Dân không sáng mà dân ngu ở đây, theo Lão Tử, không hàm nghĩa là sự ngu dốt, tối tăm, mà là đức tính chất phác, giản dị, tự nhiên, vô tội. Người lý tưởng trở về với đạo tự nhiên “vô vi”, theo Lão Tử, là người mà “người đời sáng chói, riêng ta lù mù; người đời rạch ròi, riêng ta hỗn độn Người đời đều có chỗ dùng, riêng ta ngu dốt, thô lậu” (Đạo đức kinh, Chương 20). Cái lù mù, ngu dốt, hỗn độn, thô lậu của Lão Tử chính là cái thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên mà sống hòa vào tự nhiên, theo đúng bản tính quy luật của nó, không tự mãn, không tự phụ, không xáo động, không phô trương, không thái quá, không bất cập. Cái ngu đó của ông là bậc “thượng trí”. Trong học thuyết “vô vi”, Lão Tử mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thủy, không thể chế, không pháp luật, không có chế độ tư hữu và trao đổi hàng hóa, sống tự cấp tự túc. Đó là cảnh mộc mạc, sống hòa vào tự nhiên, thống nhất với tự nhiên, như đạo vô danh của ông. Theo đó: “Nước nhỏ, dân ít. Dù có khí cụ gấp trăm gấp chục sức người cũng không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt người ta trở lại dùng lối thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể nghe thấy tiếng gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong những nước ấy đến già chết mà vẫn không qua lại lẫn nhau” (Đạo đức kinh, Chương 80). Với quan niệm này, một mặt, nó có giá trị to lớn và sâu sắc, khi nó khuyên con người cần phải sống hài hòa với tự nhiên, tuân theo các quy luật của tự nhiên, sống một cách thanh tao, không ham muốn, không vụ lợi; sống một cách thanh thản, không suy tính, không ganh đua, không thủ đoạn theo đúng với quy luật của tự nhiên và phù hợp với bản tính tự nhiên của mình. Với cách hiểu ấy, con người có được một hệ thống giá trị tinh thần sâu sắc, góp phần tạo nên sự ổn định xã hội. Nhưng mặt khác, quan niệm ấy không thấy được tầm quan trọng của tri thức, kỹ thuật của con người trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, nó thủ tiêu khả năng nhận thức của con người về bản chất và các quy luật của tự nhiên. Do vậy, nó phủ nhận vấn đề chinh phục giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên vì cuộc sống của con người; nó làm cho con người ta an phận, trì trệ, không cầu tiến và thờ ơ lãnh đạm trước cuộc đời. Chính vì thế, quan niệm ấy kìm hãm sự phát triển xã hội. Hơn nữa, trong xã hội có giai cấp mà lại phủ nhận mọi truyền thống đạo đức, luân lý, chính trị, pháp luật, văn hóa,, có nghĩa là, rút cuộc, quan niệm ấy đã kéo thụt lùi lịch sử, nó muốn đưa xã hội trở về thời kỳ nguyên thủy. Như vậy, dưới góc độ này, quan niệm “vô vi”của Lão Tử mang tính chất ảo tưởng và bộc lộ rõ nét những hạn chế về mặt lịch sử. Mặc dù vậy, quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc ứng xử một cách nhân văn đối với giới tự nhiên và giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay. 3. Ý nghĩa của quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên đối với việc giải quyết vấn đề môi trường tự nhiên hiện nay Tư tưởng về sự thống nhất, hài hòa với tự nhiên; về sự gìn giữ, bảo vệ giới tự 78 nhiên mà Lão Tử nêu ra vẫn có ý nghĩa sâu sắc đối với cuộc sống đương đại. Ngày nay, môi trường tự nhiên thường được gọi là môi trường sinh thái. Vấn đề môi trường sinh thái là một trong những vấn đề toàn cầu cấp bách và khó giải quyết trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu quan niệm của Lão Tử về mối quan hệ con người – tự nhiên, chúng ta có thể rút ra những bài học sau đây: Thứ nhất,con người không nên quá tự hào về những thành quả của mình trong việc chinh phục giới tự nhiên. Trong thời đại ngày nay con người dùng khoa học, kỹ thuật và công nghệ để khai thác và biến đổi giới tự nhiên, đồng thời cũng đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên, làm kiệt quệ tài nguyên, thiên nhiên, đặt loài người trước sự “trả thù của giới tự nhiên”. Nhưng cũng chỉ bằng cách dùng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, con người mới quay trở về với cội nguồn của mình là giới tự nhiên. Vì vậy, con người phải sống hài hòa thực sự với tự nhiên trong một môi trường sống mới – trí tuệ quyển, trên cơ sở hiểu biết sâu sắc các quy luật của tự nhiên và điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên. Hai là, con người phải thực hiện nguyên tắc đồng tiến hóa giữa con người và tự nhiên Phương thức sống hài hòa với tự nhiên, thích nghi với sự vận động của tự nhiên để giữ trạng thái cân bằng của cả phức hợp hệ thống “con người – xã hội – tự nhiên” nhằm đảm bảo tính cân bằng, tính tự tổ chức, tự điều khiển, tự bảo vệ của sinh quyển, bảo đảm tính thống nhất giữa con người, xã hội và tự nhiên, đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững hiện nay. Bởi vậy, con người cần phải sống hòa nhập, hài hòa, thống nhất với tự nhiên, coi việc quay trở về với tự nhiên sẽ mang lại một hệ thống các giá trị tinh thần quý báu cho đời sống con người. Ba là, cần phải khai thác một cách hợp lý giới tự nhiên phục vụ đời sống con người. Việc bảo vệ môi trường tự nhiên không có nghĩa là con người phải ngừng tác động vào tự nhiên, hay tạm ngừng tăng trưởng và phát triển để giữ cân bằng sinh thái cho cả phức hợp hệ thống “tự nhiên – con người – xã hội”. Triết học chỉ ra rằng, điều kiện tự nhiên đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng phải được khai thác một cách hợp lý, vận dụng chúng một cách chính xác. Cụ thể là, con người cần phải thay đổi phương thức hoạt động thực tiễn, không chỉ vì lợi ích vật chất mà còn vì lợi ích tinh thần, không chỉ vì thế hệ hôm nay mà cả vì thế hệ ngày mai. Muốn vậy, con người cần phải nắm vững các quy luật của tự nhiên và vận dụng các quy luật đó một cách phù hợp vào trong hoạt động thực tiễn của mình, trước hết là vào quá trình sản xuất xã hội. Bốn là, phát triển con người nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Mặc dù nhân tố tự nhiên đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chúng chỉ là những nhân tố thụ động, còn con người mới là tác nhân tích cực. Do vậy, phải có cơ chế, chính sách, biện pháp phát triển con người một cách phù hợp mới là nhân tố quyết định sự phát triển năng động và bền vững. Không phải ngẫu nhiên, Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định, cần phải xây dựng và phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng 79 và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ môi trường;” [2, tr. 50]. 4. Kết luận Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều triết gia, nhiều trường phái. Đặc biệt, quan niệm mà Lão Tử đã đặt ra cách đây trên hai ngàn năm khi giải quyết mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không chỉ có ý nghĩa đối với thời đại lúc bấy giờ, mà ngay cả trong cuộc sống đương đại hiện nay. Quan niệm của ông đã để lại những giá trị gợi mở, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc giải quyết vấn đề môi trường sinh thái hiện nay. Chỉ trên cơ sở thống nhất, hòa nhập, hài hòa giữa con người và tự nhiên, điều khiển có ý thức mối quan hệ ấy thì xã hội hiện đại mới có được một sự phát triển nhanh và bền vững. Vấn đề môi trường tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa con người và tự nhiên hiện nay không đơn giản chỉ là vấn đề thuần túy khoa học hay kinh tế – kỹ thuật, nó còn là vấn đề tư tưởng chính trị. Do vậy, các khoa học xã hội, đặc biệt là triết học có vai trò phương pháp luận quan trọng trong việc làm rõ trách nhiệm của con người trong việc bảo vệ môi trường tự nhiên không chỉ liên quan đến thế hệ hôm nay mà cả các thế hệ mai sau. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t. 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 3. Lão Tử (2008), Đạo đức kinh, Nxb Thanh Niên, TP. Hồ Chí Minh. Ngày nhận bài: 18/11/2015 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015
File đính kèm:
- quan_niem_cua_lao_tu_ve_moi_quan_he_con_nguoi_tu_nhien_va_y.pdf