Quan niệm của John Locke về tự do trong tác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền"
John Locke (1632 -1704) là một trong những triết gia vĩ đại nhất của
châu Âu thế kỷ XVII. Những tư tưởng về tự do, dân chủ, về sự phân quyền nhà nước
của ông đã ảnh hưởng sâu rộng đến nền triết học chính trị và chính trị học nhân loại
đến tận ngày hôm nay. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ trình bày tư tưởng tự
do của ông trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Bạn đang xem tài liệu "Quan niệm của John Locke về tự do trong tác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền"", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm của John Locke về tự do trong tác phẩm "Khảo luận thứ hai về chính quyền"
n bố rõ ràng ý chí của Ngài – đặt người này lên trên người khác” [1, tr.33]. Nhưng dù là mọi người đều tự do và bình đẳng như nhau. Điều này cũng không đồng nghĩa với việc chúng ta muốn làm gì thì làm, đây không phải là một trạng thái lộn xộn, tất cả đều phải tuân theo một khuôn khổ chung về quy tắc ứng xử - luật tự nhiên. Luật tự nhiên cho phép mọi người bình đẳng, tự do trong việc sắp đặt con người hay tài sản của mình, đồng thời cũng ngăn cấm mọi người tự do hủy diệt bản thân hay làm việc đó đối với một sinh vật bất kỳ thuộc tài sản của họ. Điều đó là càng sai trái khi thực hiện đối với người khác. Vì theo Locke, con người là tuyệt tác của một đấng Sáng tạo toàn năng và thông thái vô hạn; tất cả được sai phái vào thế giới này do lệnh của Ngài và làm việc cho Ngài. Ở đây, chúng ta lại càng không thể có suy nghĩ tiêu cực rằng chúng ta sinh ra đã là những sinh vật thấp kém, là một công cụ cho người khác sử dụng.“Không thể giả định bất kỳ sự lệ thuộc nào giữa những con người chúng ta, nghĩa là có thể trao quyền cho ta đi hủy diệt người khác, hoặc như thể chúng ta được tạo ra để cho người khác sử dụng, giống như những sinh vật ở hạng thấp kém hơn” [1, tr.36]. 369 Theo Locke, từ đây xuất hiện một cặp quyền lợi để bảo đảm cho những điều trong luật tự nhiên được thực hiện. Đó là quyền bảo toàn chính mình và bảo toàn cho toàn thể loài người còn lại. Theo luật tự nhiên thì chúng ta không thể lấy đi hoặc làm suy yếu sinh mệnh người khác. Nhưng nếu việc làm đó là để thực hiện công lý với kẻ xâm phạm đến quyền tự do quy định trong luật, giết một người nhằm ngăn chặn những người khác có hành vi giống như vậy, thì việc làm đó là cần thiết. “Mỗi người đều có quyền tiêu diệt một tên tội phạm như vậy sau khi hắn đã sát hại em trai của mình” [1, tr.42]. “Nợ máu phải trả bằng máu”. Bằng việc vi phạm luật tự nhiên, người vi phạm đã tự tách mình ra khỏi đời sống, hành vi của anh ta đã ngầm tuyên bố rằng “mình sống bằng quy tắc khác thay cho quy tắc của lý trí và bình đẳng cộng đồng, vốn là tiêu chuẩn mà Thượng đế đã sắp đặt cho hành động con người” [1, tr.38]. Mà theo đó, nếu như chúng ta phán xử đúng trong quá trình trừng phạt người xâm phạm, tức hành xử trong quyền hạn của mình, bằng sự bình tĩnh, lý trí, lương tâm thì anh ta hoàn toàn vô tội. Dù việc đó đã phần nào xâm phạm đến cái tự do, bình đẳng theo luật tự nhiên của người xâm phạm.“Mỗi người đều có quyền trừng phạt người vi phạm, và đều là người chấp pháp của luật tự nhiên” [1, tr.38]. “Người chấp pháp”: giống như những luật khác, luật tự nhiên sẽ vô hiệu nếu như không một ai trong trạng thái tự nhiên có quyền thực thi luật đó. Ở đây, trong trạng thái hoàn hảo này, việc thực thi luật dành cho tất cả mọi người. Tức là chỉ cần phát hiện một hành vi gây phương hại, thì mọi người đều có quyền trừng phạt. Theo đó, Đối với người bị phương hại, bên cạnh quyền trừng phạt chung thì anh ta còn có quyền tìm kiếm sự bồi thường thiệt hại từ người gây hại. Đồng thời, bất kỳ cá nhân nào nhận thấy điều đó là đúng, đều có thể liên kết với người bị phương hại và trợ giúp họ trong việc giành lại từ kẻ vi phạm những đến bù thõa đáng so với sự tổn hại mà anh ta đã chịu. Quyền trừng phạt và quyền đòi bồi thường thiệt lại là những công cụ hữu ích để duy trì trạng thái tự nhiên một cách hoàn hảo. Từ hai quyền này, có thể suy ra về việc cai trị. Ở một số nơi, quyền trừng phạt có thể được miễn trừ nếu như nơi đó không đòi hỏi thực thi pháp luật. Nhưng quyền đòi bồi thường thì không, không thể lợi dụng chức quyền để miễn trừ luôn quyền đòi bồi thường thiệt hại vì chỉ có chính cá nhân người bị phương hại mới có thể quyết đinh có miễn trừ quyền đó không với trường hợp của cá nhân mình. Với cùng lý do là để duy trì trạng thái tự nhiên, quyền trừng phạt có dành cho cả những vi phạm nhỏ hơn, mỗi người vi phạm đều sẽ bị trừng phạt đến một mức độ mà đảm bảo sẽ khiến cho người vi phạm ở vào vị thế mặc cả yếu ớt và khiến người khác kinh hãi mà tránh những hành động giống như vậy. Đối với trạng thái tự nhiên, thì mỗi người đều có quyền lực hành pháp của tự nhiên, điều này, sẽ dễ khiến cho con người ta vin vào đó mà có sự thiên vị, thiên vị cho bản thân, gia đình, bạn bè. Bên cạnh đó, bản tính xấu, sự xúc động, thiếu kiềm chế, thù hằn sẽ đưa họ vượt quá xa khi thực hiện quyền trừng phạt đối với người khác. Kéo theo đó, là sự hổn độn, rối loạn. Chính Locke cũng thừa nhận điều này, và ông cũng dễ dàng chấp nhận một hình thức thay thế đúng đắn là chính quyền dân sự có thể bổ khuyết cho những bất tiện của trạng thái tự nhiên. Nhưng vấn đế cũng vẫn chưa được giải quyết khi chính quyền dân sự, mà đứng đầu là những ông vua, quan tòa, họ cũng là con người, cũng sẽ dễ dàng thiên vị, thiếu kiếm chế. Cần thiết ở đây chính là một công cụ để kiềm chế tính thiên vị và bạo lực của con người mà những nhà phản đối trạng thái tự nhiên không đưa ra được. 370 Đánh giá chủ quan về chủ thuyết của John Locke, ta có thể thấy một điều xuất hiện xuyên suốt trong chủ thuyết của ông, đó chính là hình ảnh của Đấng tối cao hay Chúa. Chúa là người ban hành luật tự nhiên, những công dân trong trạng thái tự nhiên cũng là sản phẩm của Người. Điều này đến từ việc Locke là một người đứng về phía thần luận, là một người có xu hướng duy lý hóa Christo giáo. Bên cạnh đó, nếu đối chiếu lại với thực tiễn thế giới hiện nay, ta có thể thấy sự vượt thời đại trong tư tưởng mới mẻ về tự do của mình. Tự do nhưng trong khuôn khổ, tự do gắn liền với những quyền lợi cá nhân, đặc biệt là quyền sở hữu, hoàn toàn không khác biệt nhiều so với thời đại ngày nay. 2.1.2. Về tình trạng nô lệ “Quyền tự do tự nhiên của con người, là sự tự do trước bất kỳ quyền lực cao hơn nào nơi trần thế và không chịu sự chia phối của ý chí hay thẩm quyền lập pháp, mà chỉ có luật tự nhiên làm quy tắc cho họ” [1, tr. 57]. Như đã nói ở trên, mỗi người đều có quyền đối với mạng sống của bản thân mình, không thể chấp nhận suy nghĩ trở thành một sinh vật thấp kèm, làm công cụ cho người khác. Nhưng giờ đây, họ phải đối mặt với một hiện thực đó chính là sự nô lệ. Nô lệ: “với điều kiện hoàn hảo của mình vốn không khác gì ngoài một trạng thái chiến tranh được tiếp giữa người đi chinh phạt hợp pháp với người bị bắt” [1, tr.59]. Lúc này đây, chẳng còn một sự tự do nào hết. Người nô lệ không có thể được cho thêm bất cứ quyền gì hơn chính những thứ họ có. Họ đánh mất đi cuộc sống của mình, phải đi giao phó sinh mạng của mình cho người khác. Người chủ nô lệ có thể trì hoãn việc lấy đi sinh mạng của họ hoặc dùng họ để phục dịch riêng cho mình. Thật sự đã hoàn toàn đi ngược lại với luật tự nhiên khi giờ đây đã không còn sự tự do, bình đẳng, người nô lệ phải đặt mình ở một vị thế thấp hơn, trở thành một thứ công cụ. Nhưng những việc đó không gây thương tích cho những người nô lệ, nhưng sẽ ảnh hưởng nặng đến tinh thần. Đến một lúc nào đó, họ sẽ tự tìm đến cách giải thoát cuối cùng cho mình là cái chết. Điều này, lại đi ngược lại với luật tự nhiên khi về bảo toàn bản thân. Theo Locke, để chấm dứt tình trạng này cần một giao ước. Khi giao ước được ký kết, trao quyền lực có giới hạn cho một bên và đặt sự thuần phục vào phía kia, thì tình trạng nô lệ sẽ chấm dứt. Khi không ai có thể, “bằng sự thõa thuận, chuyển sang cho người khác cái mà bản thân anh ta không tự có, là một quyền đặt trên sinh mạng của chính mình.” [1, tr.59]. Điều này nói ra thật sự rất không tưởng, vì cách mà Locke đề xuất chấm dứt tình trạng nô lệ thật ra cũng chỉ là chấm dứt tình trạng nô lệ trên danh nghĩa mà thôi, chứ không giải quyết được thấu đáo vấn đề. Về bản chất người nô lệ vẫn mất đi những quyền tư do của mình theo luật tự nhiên. 2.2. Ảnh hưởng của John Locke tới quan điểm tự do trong phong trào Khai sáng Về cơ bản không phải đến J. Locke, các quan điểm về tự do mới được trình bày. Lịch sử đã chứng minh, quan điểm về tự do hay nói rộng hơn là các tư tưởng về quyền con người đã xuất hiện từ rất lâu rồi. Như bộ luật Hammurabi, là văn bản pháp luật thành văn đầu tiên của nhân loại nói đến quyền con người năm 1789 TCN (mặc dù quan điểm này không được tất cả các học giả ủng hộ) hay Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 – 529 TCN. 371 Đến giai đoạn Khai sáng, các quan điểm về tự do được đề cập nhiều hơn, hệ thống hơn và khái quát hơn, một phần xuất phát từ đặc điểm riêng biệt của trường phái này: “Khai sáng là một kiểu thế giới quan và triết học đặc biệt, đặc trưng cho đời sống văn hóa châu Âu và Mỹ ở thế kỷ XVIII. Đặc điểm nổi bật của nó là định hướng chống phong kiến, chống lại một nền chuyên chế, mong muốn xây dựng chương trình cải tạo xã hội và hình thành lý tưởng mới về con người” [3, tr.195].Nhưng bên cạnh đó, cũng chính là sự kế thừa những tiền đề lý luận về tự do của Locke. Tự do và các quan điểm khác trở thành vũ khí lý luận sắc bén trong cuộc đấu tranh đó. Bàn về quan điểm tự do, chúng ta có thể nhắc đến Voltaire với tuyên ngôn: tự do – bình đẳng – sở hữu. Nhưng nổi bật thì vẫn phải nói đến bộ đôi tác phẩm “Tinh thần pháp luật” và “ Khế ước xã hội” của hai tác giả Montesquier và Jean-Jacques Rousseau. Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquier trên cương vị là một luật sư ngoài việc đề cập đến những vấn đề pháp luật, ông còn bàn về tự do. Theo ông, phần thiêng liêng nhất, quí giá nhất của tự nhiên nơi con người, là tự do. Tự do cao cả thống nhất với lý trí, với thiên tính và nhân tính. Về lý trí, Montesquier cho rằng: một người công dân vô tội không còn được đảm bảo an ninh nữa thì không còn được tự do. Không được đảm bảo an ninh ở đây là chỉ việc người dân dễ dàng bị khép tội mà không được sự suy xét rõ ràng của người phán xét. Theo ông, không thể lấy lời nói để khép người ta vào trọng tội, luật bao giờ cũng chỉ nên trừng phạt những hành động đã thể hiện ra. Khép người ta tội tử hình, mà chỉ cần một nhân chứng chứng minh vô tội đã là trái với tự do. Với thiên tính, xuất phát từ quan điểm con người tự nhiên có trước con người xã hội. “Để hiểu được luật của thiên nhiên thì phải xem xét một con người trước khi hình thành xã hội” [4, tr.40]. Montesquier đề cập đến những luật của tự nhiên đã tạo ra sự tồn tại của chúng ta. Luật thiên nhiên đưa vào đầu óc chúng ta ý niệm về đấng tạo hóa. Ông cho rằng, trong trạng thái tự nhiên, mỗi người đều cảm thấy thấy thấp kém và ai cũng như mình, nên họ không tìm cách tấn công nhau và hòa bình là luật tự nhiên đầu tiên. “Trong trạng thái đó, mỗi người đều thấy mình thấp kém và hầu như thấy ai cũng như mình. Họ không tìm cách tấn công nhau, và hòa bình là luật tự nhiên đầu tiên” [4, tr.41]. Sau đó, những cảm giác gắn liền với nhu cầu sống gắn liền với cảm giác về sự yếu đuối của mình khiến nảy sinh quy luật con người phải tự tìm cách để nuôi sống bản thân là luật thứ hai. Qua đây, ông cũng đã gián tiếp đề cập những khía cạnh tự do như tự do chung sống hòa bình, tự do sản xuất để nuôi sống bản thân.Về nhân tính, tự do về nhu cầu sống lại gần nhau trên cơ sở luật thứ ba về tình yêu chân chính và luật thứ tư sống thành xã hội. Ông cho rằng, “Sự thích thú của hai con vật được sống với đồng loại, nhất là khi con đực và con cái gần nhau thì sự thích thú càng tăng lên. Vì vậy luật thứ ba là lời cầu khẩn tự nhiên mà luôn luôn nam nữ thường nói bên nhau.” Và “Con người còn cần có kiến thức. Đó là mối liên hệ giữa con người mà con vật không có. Cho nên nguyện vọng được sống thành xã hội là luật thứ tư” [4, tr.42]. Có thể thấy, tư tưởng của Locke đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng về tự do của Montequier, khi ông cũng đề cập đến luật tự nhiên, như là luật của Thượng đế sáng tạo ra. Con người trong khuôn khổ của luật ấy cũng được tự do làm những thứ mà họ cho là phù hợp: tự do làm việc cùng nhau, tự do chung sống, cố kết thành xã hội. Về Rousseau – nhân vật cấp tiến nhất trong số các nhà khai sáng Pháp, trong tác phẩm “Khế ước xã hội” của mình, ông đã mở đầu: “Người ta sinh ra tự do, nhưng 372 rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích” [5, tr.52] Ông đã lý giải bằng giả định, con người trong tự nhiên nhưng gặp phải nhiều thử thách quá lớn, không thể vượt qua. Sự tự do thực sự cần thiết nhưng cũng có thể bị lạm dụng và đưa đến tình trạng mất an ninh. Một người sử dụng quyền tự do của mình thái quá để lo cho quyền lợi cá nhân có thể gây nguy hại cho quyền lợi của nhiều người khác. Tuy là sự tự do có thể bị lạm dụng trong trạng thái tự nhiên nhưng con người cũng không bị nhiều thiệt hại như khi con người chấp nhận từ bỏ quyền tự do để được một cá nhân hay một nhóm lãnh đạo độc tài bảo vệ an ninh. Theo Rousseau, con người có thể giữ được quyền tự do và vẫn được bảo an nếu con người biết tôn trọng pháp luật do chính họ lập ra. Ông không đòi hỏi con người phải giao tất cả nhân quyền cho chính phủ bởi vì chính phủ giữ nhiệm vụ thiết lập an ninh. Ông cũng không tin là con người vẫn được tự do sau khi quyền lập pháp đã được giao cho đại diện nhân dân vốn có nhiệm vụ bảo an. Trong triết lý khế ước xã hội của mình, ông còn đề cập đến những quyền tự do không chân chính, đó là: quyền tự do sống theo ý muốn riêng và quyền làm chủ tất cả những gì mà sức mạnh cá nhân cho phép không phải là quyền tự do chân chính. Rousseau bàn đến rất nhiều về tự do, nhưng cũng không thoát khỏi ảnh hưởng từ tư tưởng tự do của Locke. Điều đầu tiên chính là thừa nhận ai cũng có quyền tự do. Ông còn đề cập đến trách nhiệm của mỗi công dân trong việc sử dụng quyền tự do của mình. Điều này cũng là sự tương đồng khi theo luật tự nhiên mà Locke đề cập cũng có nhắc tới điều này. Kế đến, chúng ta bắt gặp triết lý “khế ước xã hội” của Locke. Đây chính giải pháp hợp lý để hạn chế tính thiên vị, ích kỷ của con người. 3. Kết luận Mặc dù vẫn còn đó những những mâu thuẫn, bất cập trong học thuyết của mình, cũng như không tránh khỏi những hạn chế về thời đại, góc độ tiếp cận. Nhưng cũng không thể phủ nhận được công lao của Locke đối với nền triết học chính trị, chính trị học của thế giới về tư tưởng tự do của mình, khi mà mãi đến tận ngày nay quan điểm của ông đã trở thành tiền đề lý luận, đấu tranh, phấn đấu của nhiều quốc gia mà biểu hiện rõ nhất chính là ở hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân Quyền của Đảng Cộng sản Pháp. Tài liệu tham khảo [1]. John Locke (Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu, 2007), Khảo luận thứ hai về Chính quyền – Chính quyền dân sự, Nxb. Tri Thức, Hà Nội. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [3]. PGS.TS Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, Tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [4]. La Brède – Montesquier (Hoàng Thanh Đạm dịch, 2006), Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. [5]. Jean – Jacques Rousseau (Hoàng Thanh Đạm dịch, 2006), Bàn về Khế ước xã hội, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.
File đính kèm:
- quan_niem_cua_john_locke_ve_tu_do_trong_tac_pham_khao_luan_t.pdf