Quan niệm của John Dewey về chân lí
Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học điển hình nhất ở Mỹ,
được xem là nét đặc trưng của văn hóa Mỹ, có ảnh hưởng lớn tới nước Mỹ và người
Mỹ. Vấn đề chân lí là một nội dung cốt lõi của triết học thực dụng. Trong các nhà
triết học thực dụng Mỹ, J.Dewey là người phát triển lí luận về chân lí trong chủ
nghĩa công cụ và đưa triết học thực dụng vào đời sống hàng ngày một cách có
phương pháp. Đối với ông, chân lí chính là công cụ giúp con người đạt được hiệu
quả và sự thành công. Đồng nhất chân lí với tính hiệu quả trở thành quan điểm nền
tảng trong lí luận về chân lí của triết học thực dụng Dewey. Trong bài viết này,
tác giả đề cập đến quan niệm và những đóng góp hết sức độc đáo của J.Dewey
về chân lí.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm của John Dewey về chân lí
mạo trong sự phát triển về kinh tế - xã hội của các nước này. Nhưng việc đồng nhất chân lí với tính hiệu quả, sự thành công lại là một sai lầm, thậm chí chúng ta chưa nói tới vấn đề sự thành công của người này nhiều khi phải trả bằng cái giá là sự thất bại của người khác, có ích cho người này, chưa chắc đã có ích cho người khác. Ông còn khẳng định, khái niệm, phạm trù, phán đoán đều do một loại thao tác cấu tạo nên, tác dụng của những thao tác đó giúp cho con người lựa chọn điều kiện có lợi. Điều kiện có lợi được hiểu là những kết quả đem lại lợi ích cho con người. Như vậy, theo Dewey sự thỏa mãn quan niệm và hành động mà kết quả của nó là hiệu quả, lợi ích, thành công được coi là tiêu chuẩn của chân lí, hơn nữa sự thỏa mãn nguyện vọng và mục đích của con người được coi là tiêu chuẩn của chân lí. Quan điểm này có sự phù hợp với xã hội nước Mỹ nói riêng và xã hội tư bản nói chung trong giai đoạn triết học thực dụng hình thành và phát triển. Quan điểm này phần nào cho thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nước Mỹ và người Mỹ là rất lớn, sở dĩ triết học thực dụng có ảnh hưởng rộng rãi như vậy chính là việc nó đã giải đáp được câu hỏi lớn của một dân tộc được gọi là “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, với đa số là những người dân nhập cư từ khắp nơi trên thế giới, họ mang theo nền văn hóa, bản sắc riêng của dân tộc mình, và để tồn tại trong một quốc gia đa sắc tộc, họ phải hướng tới một triết lí chung, triết lí đó là tính hiệu quả và sự thành công trong hành động. Sự thực là triết học thực dụng đã đáp ứng được yêu cầu này khi khẳng định tiêu chuẩn của chân lí là hiệu quả, lợi ích và thành công. Vì vậy, thật không quá khi nói rằng chủ nghĩa thực dụng là một “đặc sản văn hóa” của người Mỹ, là một thứ triết lí phù hợp, góp phần tạo nên sự hùng mạnh của nước Mỹ và nét tính cách đặc trưng của người Mỹ. Tuy nhiên, quan điểm về tiêu chuẩn chân lí của J.Dewey không thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm chủ quan, dù ông đã thay đổi sự thỏa mãn cho cá nhân bằng thỏa mãn cho “công chúng”. 2.3. Về phương pháp nhận thức chân lí Xuất phát từ việc coi chân lí như là công cụ nhận thức, Dewey chống lại thuyết chân lí của chủ nghĩa duy lí với quan niệm cho rằng chân lí là khái niệm lí tính có sẵn, đồng thời ông chống lại thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật, khi cho rằng chân lí chỉ là sự phán ánh thực tại khách quan. Theo ông, “bất kỳ tư tưởng, khái niệm nào vừa không thể là thực tại tinh thần tồn tại độc lập, cũng không thể là rập khuôn thực tại khách quan, chỉ có thể coi chúng là giả thiết ứng dụng, và giả thiết được nêu lên theo ý nguyện của con 124 Quan niệm của John Dewey về chân lí người. Nó giống như công cụ của con người sử dụng để chế tác một sản phẩm nào đó hoàn toàn do người sử dụng công cụ thiết kế thuận lợi cho mình” [1;172]. Ở luận điểm này, ông tiếp tục sự phủ nhận tính khách quan của chân lí, đồng thời nhấn mạnh tính chủ quan, tính tương đối của chân lí. Vì chân lí chỉ là công cụ nhận thức, không phải là những khái niệm có sẵn, cũng không phải là sự phản ánh máy móc thực tại, do đó Dewey nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò trong việc nhận thức chân lí, vì thế phương pháp của ông thường được gọi là phương pháp thăm dò, nó là sự kế thừa và phát triển lí luận “Hoài nghi - niềm tin” của Peirce. Phương pháp thăm dò của ông xuất phát từ việc giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình nhận thức. Quan niệm về mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại của ông cũng rất đặc biệt, thực tại “đi trước” nhận thức. Nhận thức là sự can thiệp mang tính tích cực, sáng tạo của chủ thể vào đối tượng, làm biến đổi đối tượng. Khách thể tồn tại khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Quan điểm này hoàn toàn đối lập với quan điểm cho rằng chân lí là một khái niệm có sẵn, bất biến, khi khẳng định chân lí được khám phá ra trong quá trình nhận thức, đó là quá trình nhận thức sáng tạo, tích cực của chủ thể. Nếu như chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng chân lí là tri thức phù hợp với thực tại khách quan, thì Dewey lại khẳng định con người có khả năng làm biến đổi đối tượng khách quan, hay thực tại chỉ có ý nghĩa khi trở thành đối tượng của nhận thức. Không thể phủ nhận vai trò chủ động, sáng tạo của con người trong quá trình nhận thức chân lí, nhưng tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của con người trong quá trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự vật thành tồn tại của nhận thức là đặc trưng trong phương pháp nhận thực khoa học của Dewey là một sai lầm, mang tính chủ quan, với ông thực tại cũng chỉ được xem là kết quả của quá trình nhận thức: “Sự thay đổi các quan niệm của chúng ta về đối tượng đã tạo nên đối tượng phù hợp với trạng thái ý thức, nói cách khác, quá trình nhận thức là quá trình “xác lập thực tại”. Tồn tại - nghĩa là trở thành đối tượng của nghiên cứu khoa học” [3;41]. Dewey lí giải quá trình nghiên cứu theo tinh thần của Peirce. Cuộc sống đặt con người vào những tình huống nan giải, những trạng thái hoài nghi. Bị rơi vào tình huống ấy, con người cần đến phương pháp để giải quyết vấn đề. Chức năng duy nhất của tư duy là cải tạo tình huống chưa xác định thành tình huống xác định. Khoa học là một loại hộp đựng công cụ mà từ đó người ta lựa chọn những gì tiện lợi, có hiệu quả trong những điều kiện nhất định. Theo Dewey, phương pháp nghiên cứu để tìm ra chân lí gồm có 5 bước: 1) Cảm nhận nan giải; 2) Ý thức vấn đề; 3) Dự thảo giải pháp (giả thiết); 4) Khai mở ý tưởng về giải pháp đến những kết quả kinh nghiệm của nó; 5) Quan sát và kiểm chứng giả thiết. Trước hết, cần phải xác định nan giải hay chính là hoàn cảnh có vấn đề, sau đó cần đưa ra giả thuyết hay kế hoạch giải quyết vấn đề, sau nữa cần xem xét tất cả các hậu quả kinh nghiệm có thể xảy ra do quyết định giải quyết vấn đề đưa ra. Cuối cùng là giai đoạn thực hiện và kiểm chứng nó bằng thực nghiệm. Trong những trường hợp cần thiết, có thể thay đổi quyết định đưa ra. Như vậy, toàn bộ quá trình đều dựa trên phương pháp thử sai, đó 125 Nguyễn Văn Thỏa là khả năng tự điều chỉnh của quá trình nhận thức trên cơ sở sự kiểm chứng bằng thực nghiệm. Nếu đạt được cách giải quyết thành công trong những bối cảnh có vấn đề, thì giả thiết đó được coi là chân lí. Vì vậy quá trình nhận thức là quá trình thay đổi đối tượng được nhận thức. Quan điểm này có những điểm tích cực nhất định ở sự khẳng định vai trò của chủ thể trong quá trình nhận thức, ở sự nhấn mạnh khả năng kiểm chứng bằng sự thử sai và khả năng tự điều chỉnh của những phán quyết được cho là đúng đắn. Tuy nhiên hạn chế của ông là sự phủ nhận tính khách quan trong nhận thức chân lí. Xét đến cùng phương pháp mà ông nêu ra đó là những kinh nghiệm chủ quan giúp con người đạt được mục đích. 2.4. Những giá trị và hạn chế trong quan niệm của J.Dewey về chân lí Vấn đề chân lí được Dewey nghiên cứu thông qua chủ nghĩa công cụ, theo nghĩa hẹp chủ nghĩa công cụ là lí luận về nhận thức và chân lí. Chân lí được coi là công cụ đưa đến thành công cho con người. Hiệu quả của quan niệm trở thành thước đo của chân lí. Quan niệm của ông có giá trị nhất định trong việc phê phán và bác bỏ một số quan niệm sai lầm về chân lí. Đồng thời ông cũng đề cao các phương pháp khoa học trong nhận thức chân lí. Dewey nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò, phương pháp thăm dò của ông nhấn mạnh tính tích cực, sáng tạo của chủ thể để giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình nhận thức. Ở một góc độ nhất định, quan niệm về chân lí của Dewey hướng đến con người trong sự thống nhất chỉnh thể chân thiện mỹ, đó là biểu hiện của chủ nghĩa nhân bản trong triết học thực dụng. Tất nhiên ở đây chúng ta muốn nhấn mạnh về con người xã hội, con người cộng đồng chứ không phải con người cá nhân. Nếu loại bỏ việc chủ nghĩa thực dụng hướng tới lợi ích và bảo vệ lợi ích cho số ít người trong xã hội, thì đó thực sự là một quan điểm vì con người, vì sự phát triển của xã hội. Tinh thần nhấn mạnh hiệu quả thực tế, sự thỏa mãn giúp con người đạt đến thành công là tiêu chuẩn của chân lí, là sự phản ánh phù hợp trong thời đại ngày nay, khi mà thước đo của mọi giá trị chính là tính hiệu quả, sự hữu dụng và thỏa mãn những nhu cầu của con người. Mặc dù vậy, trong quan niệm của Dewey khi đồng nhất chân lí với hiệu quả, xem tính hữu dụng là cái tạo nên nội dung của chân lí, nhưng việc đồng nhất chân lí với tính hiệu quả lại là một quan điểm sai lầm, mặc dù hiệu quả được xem là một trong những thuộc tính của chân lí. Khi bàn đến tính hiệu quả đó cho ai, vì ai? Ông đã phát triển thêm một bước quan niệm của James về chân lí, khi cho rằng chân lí là sự thỏa mãn, hiệu quả, đó không phải cho cá nhân mà cho cộng đồng xã hội. Chính từ những hiểu lầm và phản ứng đối với triết học thực dụng, ông đã đi đến sự giải thích và bổ sung này. Tất nhiên, Dewey quan niệm chân lí là cái đem lại hiệu quả cho cộng đồng, không làm làm thay đổi bản chất chân lí của triết học thực dụng, bởi trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa khi mà những quy luật kinh tế thể hiện mặt trái của nó, không có sự bình đẳng và công bằng cho tất cả mọi người, ở đó quyền lực thuộc về số ít những người giàu có trong xã hội, thì việc thỏa mãn lợi ích của người này nhiều khi là sự chà đạp lên lợi ích của người khác, vì thế 126 Quan niệm của John Dewey về chân lí không có hiệu quả, lợi ích cho tất cả mọi người. Đồng thời, ông nhấn mạnh tính chủ quan, tính tương đối và phủ nhận tính tuyệt đối, tính khách quan, tiêu chuẩn khách quan của chân lí. Xuất phát từ chủ nghĩa công cụ, ông coi chân lí là công cụ và không cần phân biệt thật giả mà chỉ cần quan tâm đến có tác dụng, có hiệu quả hay không, ông đã phủ nhận hoàn toàn tiêu chuẩn khách quan của chân lí, với ông chân lí chỉ còn thuần túy mang tính chủ quan. Do đó, ông theo chủ nghĩa tương đối và phủ nhận tính tuyệt đối của chân lí, khi cho rằng mọi tư tưởng, khái niệm không thể là sự mô tả hiện thực khách quan, mà chỉ có thể là những giả thiết ứng dụng; mà giả thiết là do con người đề xuất theo ý muốn chủ quan của mình, nó như những công cụ được con người sử dụng khi cảm thấy tiện lợi. Theo ông, nhận thức tính tương đối của chân lí là nhiệm vụ của nhận thức khoa học. Ngoài ra, khi bàn về nhận thức khoa học, ông thấy được tính năng động, chủ quan của con người. Điều đó không sai, nhưng sai lầm của ông là tuyệt đối hóa tính chủ quan, từ đó xem nhẹ đối tượng khách quan. Ông cho rằng thực tại “đi trước” nhận thức. Nhận thức là sự can thiệp mang tính tích cực, sáng tạo của chủ thể vào đối tượng, làm biến đổi đối tượng. Khách thể tồn tại khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của con người trong quá trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự vật thành tồn tại của nhận thức là đặc trưng trong phương pháp nhận thức khoa học của ông, ở đây thực tại cũng chỉ đáng xem là đối tượng của nghiên cứu khoa học, là kết quả của quá trình nhận thức. Cũng đề cập tới phạm trù thực tiễn, nhưng nội dung thực tiễn lại khác cơ bản về chất so với quan niệm về chân lí trong triết học Mác - Lênin. Theo triết học Mác - Lênin, chân lí là sản phẩm của quá trình nhận thức đi từ trực quan sinh động (thực tiễn) đến tư duy trừu tượng, và từ tư tuy trừu tượng đến thực tiễn đó là biện chứng của sự nhận thức chân lí. Vấn đề thực tiễn trong triết học Mác vừa là điểm khởi đầu, và cũng là điểm kết thúc của nhận thức chân lí. Thực tiễn ở đây là thực tại khách quan, độc lập với ý thức con người và quyết định ý thức của con người. Trong khi đó, vấn đề thực tại trong triết học thực dụng của Dewey nói riêng và triết học thực dụng nói chung chẳng qua cũng chỉ là kinh nghiệm thực tiễn mang tính chủ quan của con người, là kết quả của nhận thức, ở đó tính hữu dụng đối với tính chủ quan con người trở thành tiêu chuẩn của chân lí. Đây là khác biệt cơ bản của triết học Mác - Lênin và triết học thực dụng. Mặt khác triết học Mác - Lênin khẳng định chân lí vừa có tính tương đối vừa có tính tuyệt đối, thì triết học thực dụng của Dewey lại phủ nhận tính tuyệt đối của chân lí và xem chân lí chỉ thuần túy tương đối với hiệu quả, lợi ích cho con người. Triết học Mác - Lênin khẳng định tiêu chuẩn khách quan của chân lí, thì Dewey lại phủ nhận tiêu chuẩn khách quan, đồng thời nhấn mạnh tính chủ quan, nhân tạo của chân lí. Như vậy, quan niệm về chân lí của Dewey có sự thống nhất với quan niệm của James, cái gì hữu dụng cái đó là chân lí, cái gì là chân lí tất phải hữu dụng. Mặc dù có sự phát triển trong quan niệm, thay tính hiệu quả, sự thỏa mãn của cá nhân bằng cộng đồng xã hội. Tuy nhiên nó vẫn không làm thay đổi bản chất của quan niệm về chân lí trong triết 127 Nguyễn Văn Thỏa học thực dụng. 3. Kết luận Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng quan niệm về chân lí của Dewey đã đóng góp những giá trị nhất định về lí luận và thực tiễn. Đó là sự cố gắng đi tìm những kiến giải mới về lí luận nhận thức trong triết học. Đề cập đến thực tiễn, và giải quyết những vấn đề thực tiễn, phục vụ cho con người là đích hướng tới của triết học thực dụng. Ở góc độ nào đó, nó thể hiện rất rõ quan điểm thực tiễn, khẳng định triết học không xa rời thực tiễn mà luôn xuất phát và phục vụ cho thực tiễn, qua đó cũng thể hiện phần nào tinh thần nhân văn, vì con người và phục vụ con người. Đó chính là đóng góp của triết học thực dụng trong vấn đề chân lí. Quan niệm về chân lí trở thành cơ sở để triết học thực dụng giải quyết nhiều vấn đề lí luận và thực tiễn đặt ra. Trong đó, chính J.Dewey là nhà triết học đã góp phần đưa triết học thực dụng vào đời sống xã hội Mỹ, biến nó thành nét đặc trưng của “văn hóa Mỹ”. Trong sự phát triển của triết học đương đại Mỹ, điểm nổi bật là việc nhấn mạnh “triết học ứng dụng”, tức tư duy triết học về các vấn đề khoa học, kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, chúng ta thấy dấu ấn và sự ảnh hưởng của triết học thực dụng Mỹ, đặc biệt là vấn đề chân lí trong hệ thống triết học này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lưu Phóng Đồng, 1994. Triết học phương Tây hiện đại, tập 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Lưu Phóng Đồng, 2004. Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện đại. Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội. [3] U.K.Melvil (Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch), 1997. Các con đường của triết học phương Tây hiện đại. Nxb Giáo dục. ABSTRACT John Dewey’s opinion of "the truth" Pragmatism is the most accepted branch of philosophy in the USA, considered my many to be a characteristic feature of American culture, even having a great influence on America and Americans. The issue of truth is the essential aspect of pragmatic philosophy. Among the pragmatic philosophers in the USA, J. Dewey worked on developing the theory of truth in instrumentalism and he wished to bring his philosophy of pragmatism into daily life. To Dewey, truth is instrumental in helping humans live effectively and successfully. In J. Dewey’s pragmatism, unifying truth and effectiveness became the fundamental philosophy of the theory of truth. In this article, the author has referred to J. Dewey’s conceptions and unique contributions to the idea of truth. 128
File đính kèm:
- quan_niem_cua_john_dewey_ve_chan_li.pdf