Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada

Xu hướng hội nhập sâu rộng ngày càng phát triển trên thế giới, Việt Nam

c ng không n m ngoài xu hướng đó. Khi nền kinh tế quốc gia hội nhập, các doanh nghiệp

vừa và nh trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt. Quỹ tín dụng nhân dân là nơi

các doanh nghiệp vừa và nh có thể tiếp cận với nguồn vốn với quy mô nh . Trong xu thế đó,

sự cần thiết phải đổi mới phương thức quản lý đối với loại hình tài chính này. Bài viết tập

trung vào việc phân tích thực trạng quản lý Nhà nước đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân

ở Việt Nam trong thời gian qua và trong bối cảnh hiệp định thương mại FTA thế hệ mới. Bên

cạnh đó c ng phân tích kinh nghiệm quản lý loại hình tài chính này từ Canada –một quốc gia

phát triển, có hệ thống tín dụng nhân dân phát triển. Từ việc phân tích đó rút ra bài cho Việt

Nam. Cuối cùng tác giả đưa ra một số kiến nghị nh đối với Nhà nước để hệ thống quỹ tín

dụng phát triển, phục vụ tôt cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước trong bối cảnh mới.

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 1

Trang 1

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 2

Trang 2

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 3

Trang 3

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 4

Trang 4

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 5

Trang 5

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 6

Trang 6

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 7

Trang 7

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 8

Trang 8

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 9

Trang 9

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang xuanhieu 5360
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada

Quản lý nhà nước với quỹ tín dụng nhân dân trong bối cảnh FTA thế hệ mới – Kinh nghiệm từ Canada
g dẫn Luật chưa được ban hành, như Quy định về 
mạng lưới của QTDND, Quy định về sáp nhập, hợp nhất, tổ chức lại đối với QTDND, Quy 
định về trình tự, thủ tục thay đổi vốn điều lệ của QTDND... 
Một số quy định áp dụng đối với QTDND chưa hoàn toàn phù hợp với đặc thù hoạt 
động của QTDND (như thành viên, vốn góp, quy chế cho vay, địa bàn,...), khi áp dụng vào 
thực tiễn đã bộc lộ khiếm khuyết. Điển hình về vốn góp thường niên: Theo Điều 28 Thông tư 
04/2015/TT-NHNN ngày 31/3/2015 quy định về góp vốn của thành viên QTDND như sau: 
“Mức vốn góp thường niên tối thiểu là 100.000 đồng. Các thành viên QTDND không phải 
góp vốn thường niên trong năm tài chính đầu tiên kể từ khi tham gia QTDND. Vốn góp 
thường niên có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong năm tài chính, vốn góp thường 
niên bắt đầu thực hiện từ năm tài chính 2016”. Việc quy định về vốn góp thường niên với mức 
tối thiểu 100.000 đồng/năm đối với thành viên mang tính hình thức, khiên cưỡng, kém hiệu quả, 
không hình thành được mối quan hệ thường xuyên, hai chiều giữa thành viên và QTDND. Thực 
tế cho thấy, các QTDND rất khó khăn, vất vả trong việc hàng năm đi vận động hằng trăm thành 
1144 
viên lâu năm đóng góp khoản tiền bé (100.000 VNĐ) để duy trì tư cách thành viên, nhất là đối với 
các đảng viên trước đây tham gia gây dựng QTDND theo chỉ đạo của Tỉnh ủy khi triển khai Chị 
thị 57-CT/TW. 
- Về công tác cấp phép: thẩm định hồ sơ cấp phép của một số NHNN chi nhánh tỉnh, 
thành phố vẫn còn hiện tượng sơ sài, đại khái; cấp phép mang tính chủ quan, thực hiện theo 
mệnh lệnh hoặc có thời điểm cấp phép ồ ạt, không gắn với mục tiêu tái cơ cấu. Có những địa 
phương xảy ra tình trạng cấp phép không đúng quy trình, thủ tục theo quy định của pháp luật, 
cấp phép không đúng chỉ đạo của NHNN TW, như: NHNN chi nhánh Thanh Hóa: 02 trường 
hợp (năm 2013), NHNN chi nhánh Hà Tĩnh: 04 trường hợp (2012 - 2013), NHNN chi nhánh 
Vĩnh Long: 01 trường hợp (năm 2016) 
- Về công tác thanh tra, giám sát: chủ yếu là thanh tra định kỳ, dàn trải đối với tất cả 
các QTDND, dẫn đến tình trạng nguồn lực thanh tra bị phân tán, sử dụng thời gian cho công 
tác thanh tra chưa thực sự hiệu quả; Nhiều cuộc thanh tra không phát hiện được các vi phạm, 
các rủi ro tiềm ẩn; các kết luận thanh tra còn sơ sài, nương nhẹ cho đối tượng thanh tra; Việc 
đôn đốc, giám sát thực hiện kiến nghị theo kết luận thanh tra tại nhiều địa phương chưa được 
chú trọng dẫn đến QTDND chậm trễ trong việc khắc phục sai phạm. 
- Về công tác cơ cấu lại: việc xử lý các QTDND yếu kém còn chậm chạp, kéo dài, một 
phần do phải qua rất nhiều khâu, nhiều cấp mới quyết định được giải pháp xử lý. Việc triển 
khai phá sản các QTDND gặp nhiều khó khăn bởi thủ tục phá sản QTDND còn nhiều bất cập 
do chưa từng có tiền lệ và quy trình, thủ tục phức tạp. Ngoài ra đại đa số các địa phương đều 
rất do dự áp dụng biện pháp phá sản đối với QTDND, do e ngại ảnh hưởng đến sự bất ổn về 
tâm lý dân cư và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. 
- Về hỗ trợ đào tạo: công tác đào tạo của Hiệp hội QTDND còn chưa kịp thời, có xu 
hướng co hẹp, hình thức đào tạo, giáo trình, nội dung đào tạo, phương thức đào tạo còn đơn 
điệu. Năng lực hỗ trợ trong công tác đào tạo, phổ biến văn bản QPPL của Hiệp hội QTDND 
còn yếu và lúng túng. Việc nắm bắt khó khăn trong quá trình triển khai cơ chế, chính sách, 
cập nhật văn bản mới để phản ánh nguyện vọng, đề xuất của hội viên và kiến nghị với cơ 
quan Nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề liên quan đến QTDND và Hiệp hội còn chậm, bị 
động. Các chức năng như tư vấn, đào tạo, tuyên truyền và trao đổi thông tin, kinh nghiệm về 
QTDND, xử lý các mối bất hòa trong hệ thống chưa được triển khai đầy đủ, kịp thời. Thay 
vào đó, theo phản ánh của nhiều QTDND qua quá trình khảo sát, Hiệp hội QTDND chỉ quan 
tâm đến việc thu phí hội viên đối với các QTDND, điều này đã dẫn đến hiện tượng một số 
QTDND không còn nhiệt tình tham gia Hiệp hội QTDND. 
3. Kinh nghiệm của Canada – bài học cho Việt Nam. 
Khu vực HTX ở Canada được coi là một trong ba trụ cột quan trọng của nền kinh tế 
(bên cạnh khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân). Canada cũng là nơi phong trào HTX 
tín dụng phát triển mạnh mẽ dưới hình thức hệ thống các QTD từ đầu những năm 1990 đến 
nay. Với mô hình nhà nước liên bang gồm 10 tỉnh và 3 vùng lãnh thổ, phong trào QTD cả 
nước tại Canada hiện nay gồm 3 cấp, bao gồm: cấp cơ sở, cấp tỉnh và cấp quốc gia 
1145 
Nguồn: James K. Jackson (2013) 
 Mô hình tổ chức quản lý và giám sát hệ thống tài chính Canada 
Cấp cơ sở: 434 QTD hoạt động tại các tỉnh với gần 4,3 triệu thành viên. 
Cấp khu vực/tỉnh: các QTD cơ sở tại mỗi tỉnh cùng nhau thành lập QTD trung tâm 
của tỉnh đó. Riêng các QTD cơ sở tại 2 tỉnh là Ontario và British Columbia cùng thành lập 
chung một tổ chức trung tâm là QTD Trung tâm 1. Các QTD trung tâm tại mỗi tỉnh là các 
HTX tài chính thực hiện chức năng ngân hàng trung ương và quản lý thanh khoản cho các 
QTD cơ sở thành viên; đồng thời cung cấp một loạt các sản phẩm và dịch vụ khác bao gồm 
các hoạt động liên quan đến chức năng hiệp hội thương mại bao gồm các dịch vụ như: hỗ 
trợ đào tạo chuyên môn, cho phép QTD thành viên tham gia vào các chương trình chứng 
khoán nhằm huy động vốn, điều chuyển và thanh khoản nguồn vốn giữa các quỹ tín dụng từ 
nơi thừa sang nơi thiếu... 
Cấp trung ương/quốc gia: các QTD trung tâm cấp tỉnh cùng nhau sở hữu Quỹ tín dụng 
trung ương Canada (CUCC - Credit Union Central of Canada). CUCC có chức năng quản lý 
thanh khoản cấp quốc gia và cung cấp các dịch vụ hiệp hội thương mại ở quy mô quốc gia. 
Về mô hình quản lý: 
Với đặc điểm là một nhà nước liên bang, Canada hiện nay có hai hệ thống luật pháp: 
Hệ thống thông luật của Anh, là nền tảng cho luật của liên bang; luật của 9 trên 10 tỉnh, luật 
của các vùng lãnh thổ; và hệ thống dân luật áp dụng cho tỉnh Quebec. Chính vì mô hình thể 
chế chính trị và luật pháp này mà các QTD cơ sở và QTD trung tâm cấp tỉnh hình thành nên 
một hệ thống QTD của tỉnh đó và các hệ thống này có thể được điều chỉnh bởi các hệ thống 
luật pháp khác nhau trong từng tỉnh, và nằm trong chỉnh thể hệ thống pháp luật của liên bang 
như sau: 
Quốc hội Canada 
Bộ Tài chính 
Văn phòng giám sát 
các định chế tài 
chính (OSFI) 
Vụ Tài chính 
Ngân hàng Canada 
(BOC) 
Công ty bảo hiểm tiền 
gửi Canada (CDIC) 
Cơ quan người tiêu dùng 
tài chính Canada (FCIC) 
Ủy ban giám sát các định chế tài chính 
Báo cáo trực tiếp 
Cơ quan độc lập 
1146 
Trước hết, Canada có hệ thống giám sát tài chính theo mô hình hợp nhất, trong đó 
trách nhiệm giám sát được phân chia giữa chính phủ liên bang, chính quyền cấp tỉnh và các tổ 
chức trong chính phủ liên bang như sau: 
Hệ thống chia sẻ trách nhiệm giám sát và quản lý tài chính hợp nhất này của Canada 
đã tỏ ra có giá trị trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua. 
Thứ hai, trong tổng thể Mô hình giám sát tài chính hợp nhất đó, riêng đối với hệ 
thống QTD, cơ quan giám sát và quản lý được tổ chức theo mô hình trực tiếp giám sát tất cả 
các QTD, cụ thể như sau: các QTD cơ sở được quản lý theo cấp tỉnh, trong khi các QTD trung 
tâm cấp tỉnh được quản lý bởi Văn phòng Giám sát các định chế tài chính (OFSI) theo cấp 
liên bang và cũng được quản lý theo cấp tỉnh. 
Về các quy định quản lý và giám sát: 
Với hệ thống các cơ quan quản lý, giám sát và cơ chế phân chia trách nhiệm như trên, 
các quy định quản lý và giám sát hệ thống Quỹ tín dụng tại Canada được xây dựng khá chặt 
chẽ, bám sát các hướng dẫn của quốc tế. Các quy định đó có thể điểm qua một số khía cạnh 
như sau: 
- Thành viên của các QTD cơ sở phải đảm bảo có các mối liên kết chung. Mối liên 
kết đó có thể dựa vào khu vực cộng đồng hoặc địa lý, tín ngưỡng, các mối quan hệ xã hội, 
nghề nghiệp hoặc công việc 
- Các QTD (cơ sở và trung tâm) tập trung vào hoạt động phục vụ cho thành viên, và 
vì lợi ích của thành viên (chủ yếu nhận tiền gửi từ thành viên và cung cấp dịch vụ cho các 
thành viên), ngoài ra tại Canada, các QTD được phép cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp 
nhỏ và vừa. 
- Các QTD được phép tham gia vào các hoạt động đầu tư, tuy nhiên có những giới 
hạn nhất định. Cụ thể: QTD không được đầu tư vào đất đai trừ đất đai có được từ việc thanh 
toán hoặc thanh toán một phần các khoản vay và được giữ lại dưới 7 năm nếu khoản đầu tư 
khiến QTD có tổng đầu tư, trực tiếp hoặc gián tiếp, vào đất đai vượt quá 10% tổng tài sản. 
Các QTD phải gửi tiền vào QTD trung tâm với tỷ lệ theo quy định (ít nhất 8% tổng tiền gửi 
và các tài sản nợ khác) để QTD trung tâm thực hiện chức năng điều hòa thanh khoản 
- Các hoạt động đầu tư khác, hay các dịch vụ tài chính khác được hệ thống QTD thực 
hiện thông qua các công ty con, công ty liên kết thuộc hệ thống. 
- Các QTD phải có kiểm toán nội bộ và thực hiện yêu cầu kiểm toán bên ngoài theo 
quy định. Đơn vị kiểm toán bên ngoài không được là bên nhận ủy thác khi phá sản, thực hiện 
thanh lý tổ chức hay các đơn vị liên quan trong vòng 2 năm trước đó. Đơn vị kiểm toán phải 
hoạt động được 5 năm và có ít nhất 2 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán các định chế 
tài chính 
Bài học cho Việt Nam: 
Thứ nhất, cần phải hiệu chỉnh các quy định pháp lý cho các định chế nh , đặc thù, bởi 
không có một quy định chung phù hợp với tất cả các đối tượng trên thị trường tài chính: Các 
tổ chức nhỏ thường phải tuân theo các quy định và quy tắc tương tự như các tổ chức lớn. Thực 
1147 
tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc phải tuân thủ một cách kịp thời các quy định đang gây 
áp lực sáp nhập ngày càng tăng cho các QTD nhằm tạo ra đủ nguồn lực và chuyên môn để đạt 
được tính kinh tế của quy mô. Số lượng các QTD ở Canada đang giảm với tốc độ 30-40 quỹ 
mỗi năm thông qua hình thức sáp nhập và do đó đã không dẫn đến việc giảm các chi nhánh 
hoặc các thành viên. Điều này làm thay đổi cấu trúc của các QTD, làm cho chúng lớn hơn và ít 
tính địa phương. Các chính phủ do vậy cần cân nhắc hiệu chỉnh các quy định pháp lý cho các 
định chế nhỏ. Các định chế nhỏ không thể tạo ra mức rủi ro cao như phần còn lại của hệ thống 
tài chính và do vậy không nên phải chịu gánh nặng quản lý quá lớn. Theo khuyến cáo của 
WOCCU, nên có các quy định pháp lý riêng dành cho khu vực QTD, khác với khu vực Ngân 
hàng, khu vực Hợp tác xã nói chung và cả khu vực tài chính vi mô. 
Thứ hai, việc xây dựng các chính sách phát triển, và quản lý khu vực QTD nên được 
lới l ng thay vì chịu nhiều sự ràng buộc trong phạm vi trước đây như ở Canada thay vì QTD 
còn được phép đầu tư thông qua các công ty con, công ty liên kết thuộc hệ thống. 
4. Gợi ý một số giải pháp 
- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện khung khổ pháp lý: Khẩn trương ban hành các quy định 
hướng dẫn Luật TCTD 2010 còn tồn đọng, như: Quy định về mạng lưới của QTDND; Quy 
định về sáp nhập, hợp nhất, tổ chức lại đối với QTDND; Quy định về trình tự, thủ tục thay đổi 
vốn điều lệ của QTDND... theo nguyên tắc phù hợp với đặc thù hoạt động của QTDND. 
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách mới: xây dựng thể lệ tín dụng riêng biệt đối 
với hệ thống QTDND, theo đó có tối thiểu các nội dung sau: phân loại khách hàng, phương 
thức và điều kiện cho vay, thiết lập cơ chế cho vay hợp vốn với ngân hàng hợp tác xã. Hiệp 
hội QTDND cần xây dựng tổ chức kiểm toán độc lập riêng cho hệ thống QTDND. 
- Về công tác quản lý và cấp phép: Tăng cường quản lý, giám sát công tác cấp phép 
của NHNN TW đối với các NHNN chi nhánh thông qua việc quy định chế độ báo cáo định kỳ 
(hàng quý, năm) về công tác cấp phép của NHNN chi nhánh lên Thống đốc NHNN và thông 
qua công tác thanh tra hành chính; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong cấp phép. Hàng 
năm yêu cầu NHNN chi nhánh tổng kết, đánh giá về công tác cấp phép thành lập QTDND 
trên địa bàn, nêu rõ hiệu quả của việc thành lập mới các QTDND và những khó khăn, vướng 
mắc, bất cập của công tác này. Trên cơ sở đó, NHNN TW (CQTTGSNH) xây dựng báo cáo 
tổng thể toàn hệ thống, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và định hướng cấp phép cho giai 
đoạn tiếp theo. 
- Đối với hoạt đông thanh tra, giám sát: Việc xây dựng kế hoạch thanh tra phải dựa 
trên các đề xuất giám sát để hoạt động thanh tra tại chỗ có trọng tâm, trọng điểm, chuyển dần 
việc thanh tra định kỳ sang thanh tra có trọng tâm đối với các QTDND tiểm ẩn nguy cơ rủi ro 
cao; tần suất thanh tra không phụ thuộc vào định kỳ mà phụ thuộc vào mức độ rủi ro của 
QTDND. Từ đó vừa mang lại hiệu quả thực sự, vừa tiết kiệm được công sức, thời gian, kinh 
phí thanh tra. Nội dung cuộc thanh tra phải tập trung vào các hoạt động có mức độ rủi ro cao 
theo thông tin từ hoạt động giám sát, tránh tình trạng thanh tra dàn trải; nội dung cuộc thanh 
tra chuyên đề sẽ thường xuyên được tiến hành thay vì thanh tra toàn diện. 
1148 
- Phát triển đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng: Ưu tiên bổ sung thêm cán bộ trẻ, có 
trình độ làm công tác chuyên quản QTDND và cán bộ giám sát từ xa. Thường xuyên quan 
tâm, chú trọng tới công tác kiện toàn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho TTGS. Hiện 
tại, đội ngũ cán bộ TTGS Chi nhánh còn thiếu, yếu về năng lực, cần được đào tạo, đào tạo lại, 
kiện toàn và nâng cao năng lực nghiệp vụ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. BaFin (2017), Guidance Notice on management board members pursuant to the 
German Banking Act (Kreditwesengesetz – KWG), the German Payment Services Supervision Act 
(Zahlungsdiensteaufsichtsgesetz – ZAG) and the German Capital Investment Code 
(Kapitalanlagegesetzbuch – KAGB), tháng 1/2017 
2. Bank of Canada (2012), Regulation of the Canadian Financial System, tháng 
4/2012. 
3. Canadian Bankers Association (2015), Review of the British Columbia Financial 
Institutions Act and Credit Union Incorporation Act, Tháng 9/2015 
4. Trần Quang Khánh (2013), Giải pháp chuyển đổi mô hình hoạt động của QTDND 
TW thành NH HTX, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành, NHNN, Hà Nội, Tháng 2/2013 
5. Trần Quang Khánh (2016), Giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD là HTX đến 
năm 2020 đảm bảo phát triển an toàn, ổn định và bền vững, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
Ngành, NHNN, Hà Nội, Tháng 7/2016 
BÌNH LUẬN VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH TRONG LUẬT SỬA ĐỔI, 
BỔ SUNG LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2019 VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ 
ĐỐI VỚI SÁNG CHẾ, NHÃN HIỆU, CHỈ DẪN ĐỊA LÝ 
Ths. Nguyễn Thị Nguyệt 
Trƣờng Đại học Thƣơng mại 
Tóm lược: Hiệp định về quan hệ Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình 
Dương (CPTPP) được phê duyệt bởi tạo ra những thuận lợi c ng như những thách thức lớn 
cho toàn bộ các tổ chức, cá nhân Việt Nam nói chung c ng như các doanh nghiệp Việt Nam 
nói riêng. Việc nắm r các quy định của CPTPP về sở hữu trí tuệ sẽ giúp các doanh nghiệp 
nắm bắt được thời cơ, hạn chế các rủi ro liên quan đến sở hữu trí tuệ. Trong bài viết này, tác 
giả sẽ đề cập đến một số thay đổi trong quy định của Luật sở hữu trí tuệ về điều kiện bảo hộ 
đối với sáng chế, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. 
Từ khóa: sáng chế, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bảo hộ, CPTPP 

File đính kèm:

  • pdfquan_ly_nha_nuoc_voi_quy_tin_dung_nhan_dan_trong_boi_canh_ft.pdf