Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản

Vào thế kỷ XVI – XVIII, chúa Nguyễn ở Đàng Trong thực hiện chính sách mở cửa,

phát triển ngoại thương, gia nhập vào thị trường khu vực và luồng hải thương thế

giới. Bấy giờ, đông đảo thương nhân nước ngoài từ Đông sang Tây đã đến Đàng

Trong để thiết lập quan hệ, buôn bán. Trong quan hệ thương mại giữa Đàng Trong

với các nước phương Đông, thì quan hệ buôn bán với Trung Quốc và Nhật Bản là

mạnh mẽ hơn cả. Đến thế kỷ XVIII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật

Bản bị gián đoạn; còn quan hệ thương mại với Trung Quốc cũng dần trở nên mờ

nhạt. Và cũng trừ đây, ngoại thương Đàng Trong bước vào giai đoạn suy yếu trong

quan hệ buôn bán với các nước bên ngoài

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 1

Trang 1

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 2

Trang 2

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 3

Trang 3

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 4

Trang 4

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 5

Trang 5

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 6

Trang 6

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 7

Trang 7

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 8

Trang 8

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 9

Trang 9

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 4780
Bạn đang xem tài liệu "Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản

Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 
nhân Trung Quốc đặc biệt ưa thích, thu mua với trữ lượng lớn. Thực tế thì không phải 
tất cả những hàng hóa mà thương nhân Trung Quốc mua ở Đàng Trong đều được chở 
về nước, mà nhiều thương nhân đã chở sang bán ở một nước khác để kiếm lãi. 
 Đĩa gốm Trung Quốc thế kỷ XVII-XVIII 
 Nguồn: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An 
 Trong quan hệ thương mại với Đàng Trong, thương nhân Trung Quốc được 
chúa Nguyễn dành cho nhiều ưu đãi như: Được phép định cư, lấy vợ người Việt; mức 
thuế đối với tàu thuyền xuất nhập cảng thấp hơn so với tàu/thuyền buôn phương Tây; 
khi đến các thương cảng, khu phố, các lái buôn người Hoa cũng dễ dàng thuê được 
nhà/kho chứa hàng; được tự do đi lại, giao thiệp, mua bán trực tiếp với người Việt; một 
số người Hoa còn được chúa Nguyễn cho làm việc ở Tàu ty (cơ quan quản lý tàu 
thuyền nước ngoài xuất nhập cảng tại cửa biển Hội An), làm thông ngôn (thông dịch 
viên) 
 Đến giữa thế kỷ XVII, số lượng người Hoa đến định cư, buôn bán ở Đàng 
Trong, đặc biệt là ở các đô thị/thương cảng rất đông. Thương nhân Trung Quốc hầu 
như đã làm chủ thương trường, chi phối hoạt động thương mại ở các đô thị Hội An, 
Thanh Hà, Nước Mặn, Cù lao Phố Và “đã gây ra lo ngại, khiến chính quyền Phú Xuân 
phải tìm các kiềm chế, bằng cách ra chỉ dụ năm 1675 cấm thành lập các nhóm buôn bán trên 
200 thành viên tại cùng một địa phương” [2; tr.23]. Như vậy, ở thế kỷ XVII, thương nhân 
Trung Quốc đã chiếm giữ vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại ở Đàng 
Trong, đặc biệt là ở thương cảng Hội An. 
 Cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc là 
những người làm thương mại chính ở Đàng Trong. Và khi người Nhật không còn sang 
giao lưu, buôn bán với Đàng Trong nữa, thì Hoa thương là những người đóng vai trò 
 69 
Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời Chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản 
quan trọng trong hoạt động thương mại nơi đây, được chúa Nguyễn cho giữ các chức 
vụ ở Tàu ty. 
 Đến đầu thế kỷ XVIII, thương nhân Trung Quốc vẫn tiếp tục giong buồm sang 
buôn bán ở các thương cảng, đô thị Đàng Trong như Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, 
Cù lao Phố, Hội An lúc này vẫn là nơi có nguồn hàng hóa dồi dào nhất ở Đàng 
Trong, được vận chuyển từ khắp nơi về; mặt khác Hội An còn là thương cảng lớn nhất, 
có cảng nước sâu, tàu bè ra vào dễ dàng, mà neo đậu cũng an toàn. Vì vậy, thương 
nhân nước ngoài nói chung và thương nhân Trung Quốc nói riêng vẫn đến nơi đây 
trao đổi, mua bán đông nhất, sầm uất nhất. 
 Giữa thế kỷ XVIII, tại Hội An có khoảng 6.000 Hoa kiều, là những thương gia 
buôn bán lớn nhất [6; tr.91]. Khi đến Hội An, thương nhân Trung Quốc có thể dễ dàng 
bán được những thứ hàng hóa mang theo, mặt khác còn dễ dàng tìm mua được những 
mặt hàng theo mong muốn để mang đi. Lê Quý Đôn có hỏi một thương nhân họ Trần 
người Quảng Đông (Trung Quốc) và được người này cho biết: “Thuyền tự Sơn Nam về 
thì chỉ mua được một thứ củ nâu, thuyền từ Thuận Hóa về cũng chỉ có được một thứ hồ tiêu; 
còn từ Quảng Nam về thì các hàng không món gì không có, các nước phiên không kịp được” [4; 
tr.256]. 
 Đầu thế kỷ XVIII trở đi, các thứ hàng hóa, sản phẩm mà thương nhân Trung 
Quốc mua bán ở Đàng Trong cũng không khác mấy so với hồi thế kỷ XVII; vẫn là một 
số mặt hàng khá quen thuộc. Các mặt hàng họ mang đến bán là “hợp kim toutenague, 
đồng, chè, đồ sứ, lụa thêu hoa, các vị thuốc bắc đủ loại, giấy, tranh sơn, vải vóc, đôi khi đem 
sang cả hàng hóa Nhật Bản, đồng đỏ và lưỡi kiếm” [6; tr.90]. Còn các mặt hàng họ mua để 
mang đi là “vàng, ngà voi, gỗ trầm hương, đường, cau, gỗ để nhuộm, hồ tiêu, xạ 
hương, cá ướp muối, tổ yến, vị thuốc, sừng tê giác, đằng hoàng (gomme-gutte) [6; 
tr.90]. Thương nhân Trung Quốc còn mua nhiều ngựa để dắt lên thuyền chở về nước 
bán lại, bởi ngựa được nuôi rất nhiều ở Đàng Trong và giá bán rẻ [1; tr.44]. 
 Trong quan hệ buôn bán với Đàng Trong, có lúc thương nhân người Trung 
Quốc đã nổi dậy làm loạn, chống đối chính quyền. Tháng Giêng năm Đinh Mão (1747), 
khách buôn người Phúc Kiến (Trung Quốc) tên là Lý Văn Quang ngụ ở Cù lao Phố 
(Biên Hòa) làm nghề buôn bán, đã ngấm ngầm có ý dòm ngó, bèn mưu làm loạn. Lưu 
thủ Nguyễn Cường đã hợp quân với Cai cơ đạo Hưng Phúc là Tống Phước Đại đánh 
dẹp, bắt được Lý Văn Quang và đồ đảng 57 người. Sau đó, chúa Nguyễn cho đem tống 
giam vào ngục [7; tr.154]. 
 Nhiều tài liệu của người phương Tây đương thời cho biết một điều rằng, người 
Hoa rất khôn kéo, tinh ranh trong lĩnh vực thương mại; và họ có vẻ không mấy ưa 
thích thương nhân Trung Quốc. Ghi chép của Jear Baptiste Tavernier cho biết: “Người 
Trung Hoa nếu có cơ hội lường đảo được là lường đảo ngay, khó mà có thể đối phó với những 
mánh khóe của họ được. Bản thân tôi đã từng bị họ lừa gạt Ở trên thế giới này không có hạng 
 70 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 
lái buôn nào lại tinh ma đến thế”. Một ghi chép khác của Pierre Poivre cho biết: “Người 
Đàng Trong không giàu có, cũng không phải là những thương gia khôn khéo. Họ đành bằng 
lòng với những hàng hóa mà Hoa kiều mang đến và dễ bị Hoa thương lừa bịp” [6; tr.90]. 
2. QUAN HỆ GIỮA ĐÀNG TRONG VỚI NHẬT BẢN VÀO CUỐI THẾ KỶ XVI, 
ĐẦU THẾ KỶ XVII 
 Vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, trong quan hệ thương mại với Đại Việt, 
thương nhân Nhật Bản đến buôn bán ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhưng buôn 
bán với Đàng Trong mạnh mẽ hơn. Qua các thư từ trao đổi giữa chính quyền Đàng 
Trong với chính quyền Nhật Bản đã cho thấy một điều rằng: Chính quyền, thương 
nhân Nhật Bản rất mong muốn thiết lập quan hệ buôn bán với Đàng Trong và ngược 
lại chính quyền cũng như cư dân Đàng Trong cũng thiết tha mời gọi thương nhân 
Nhật Bản đến giao dịch, buôn bán trên lãnh thổ của mình. 
 Quan hệ buôn bán giữa Đàng Trong và Nhật Bản được xác lập ở thế kỷ XVI, và 
sang đầu thế kỷ XVII thì càng được thắt chặt, phát đạt hơn. Cũng trong thời gian này, 
chính quyền Mạc phủ Tokugawa đã ban hành chính sách “Ngự chu ấn trạng”. Theo 
đó, chính quyền Nhật Bản quy định: Thương thuyền trong nước muốn ra nước ngoài 
buôn bán phải bắt buộc phải có một thứ giấy tờ quan trọng do chính quyền cấp, đó là 
tờ Shuinjo (Châu ấn trạng - giấy phép có đóng dấu đỏ). Các thuyền buôn Nhật Bản nếu 
chưa/không được cấp thứ giấy đó thì chưa/không được phép xuất dương đi đến Đàng 
Trong cũng như các nước khác để giao dịch, buôn bán. 
 Trong khoảng thời gian 30 năm (1604 - 1634), thời hoàng kim của ngành mậu 
dịch Nhật Bản, có đến 354 thuyền buôn được chính quyền cấp Shuinjo để xuất dương 
thì khu vực Đông Nam Á đón nhận đến 331 thuyền, chiếm 93,5%. Trong đó, số thuyền 
đến buôn bán tại Đại Việt (cả Đàng Trong và Đàng Ngoài) là 130 chiếc, riêng Hội An là 
86 chiếc, chiếm 66%. Đó là chưa kể đến số thuyền được cấp giấy phép và thuyền không 
có giấy phép trước và sau khoảng thời gian 30 năm đó [5; tr.206-207]. Điều này chứng 
tỏ rằng, Đàng Trong nói chung và Hội An nói riêng là thị trường, không gian buôn bán 
đã gây được sự chú ý đặc biệt của thương nhân Nhật Bản. 
 Đến buôn bán ở Đàng Trong, các thương thuyền Nhật Bản cập bến đông đảo 
nhất là ở thương cảng Hội An. Khi đến, thương nhân Nhật Bản mang theo nhiều thứ 
hàng hóa để bán, bao gồm các thứ như: Đồng, nitrat cali, tiền đồng, quạt, chảo, lò than, 
đồ gốm, vải bông, giấy, vũ khí (dù bị cấm đưa ra khỏi Nhật Bản), yên ngựaVà những 
thứ hàng hóa họ mua từ Đàng Trong để mang về nước là tơ lụa, đường, cau, hạt tiêu, 
kỳ nam, đồ gốm[8; tr.374]. 
 71 
Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời Chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản 
 Đĩa gốm Nhật Bản thế kỷ XVII 
 Nguồn: Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An 
 Vào những thập niên đầu thế kỷ XVII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong 
với Nhật Bản trở nên sôi động, là hiện tượng chưa từng có trong lịch sử giao thương 
của hai nước. Với nhiều lý do, mục đích khác nhau, trong đó có mục đích nhằm tăng 
cường mối quan hệ giao lưu, buôn bán với nhật Bản, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gã 
cháu gái của mình (con gái của Nguyễn Phúc Kỳ) cho một thương nhân Nhật Bản cư 
trú tại Đàng Trong tên là Araki Sotaro, vị công nương này sau đó có tên tiếng Nhật là 
Anio (hay Wakaku). Họ có một người con gái tên là Yasu, sau một thời gian thì gia 
đình hồi hương về Nagasaki. Ông Araki Sotaro chết năm 1636 và bà Anio chết năm 
1645 [9; tr.65-67]. 
 Từ năm 1614, ở Nhật Bản, Mạc phủ Tokugawa đã ban hành một đạo dụ, lệnh 
trục xuất tất cả các giáo sĩ, các nhà thờ bị phá hủy và giáo dân phải từ bỏ tôn giáo 
phương Tây – Thiên Chúa giáo. Những người không chịu bỏ đạo thì sẽ bị đưa đi đày 
hoặc đem giết. Đến năm 1635, vị tướng quân Iemitsu tăng cường xúc tiến các biện 
pháp nhằm cấm đạo, sát đạo đối với những người theo đạo Thiên Chúa giáo càng 
thêm gắt gao. Trong bối cảnh đó, nhiều người Nhật vì không muốn bỏ đạo đã phải rời 
bỏ quê hương, một số người đã đến Đàng Trong và xin chúa Nguyễn cho phép được 
định cư nơi đây. Những người rời bỏ xứ sở “đất nước mặt trời mọc” trước đó vì lo sợ 
cũng không dám quay về mà ở lại cư trú ở Đàng Trong. Và thế là cộng đồng Nhật kiều 
vốn trước đó sinh sống ở Đàng Trong đã đông đúc nay lại càng đông đúc thêm [6; 
tr.33]. 
 Cũng trong năm 1635, chính quyền Mạc phủ Tokugawa ban hành chính sách 
Tỏa quốc, ra lệnh đóng cửa không cho phép thuyền nước ngoài cập bến Nhật Bản và 
cấm thuyền trong nước xuất dương. Tuy vậy, vẫn có một số thương thuyền lén lút đến 
buôn bán ở Đàng Trong; một số người Nhật lo sợ khi trở về nước sẽ bị chính quyền trị 
 72 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 
tội nên đã ở lại định cư, chủ yếu là ở Hội An. Hiện nay, ở thành phố Hội An vẫn còn 
những ngôi mộ của thương nhân người Nhật chôn cất hồi thế kỷ XVII. 
 Từ giữa thế kỷ XVII trở đi, hoạt động giao thương giữa Nhật Bản và Đàng 
Trong không còn phát đạt như hồi đầu thế kỷ nữa, quan hệ buôn bán dường như bị 
gián đoạn hoàn toàn. Tuy nhiên, chính quyền Đàng Trong vẫn luôn mong muốn khôi 
phục quan hệ thương mại giữa hai nước. Việc này đã thể hiện trong công thư của Ngô 
Bỉnh Xước gửi cho viên quan ở đảo Trường Kỳ (Nagasaki) vào ngày 13 tháng 6 năm 
Chính Hòa thứ 9 (1688); thư có đoạn: “Trộm nghĩ sưởng quốc (nước An Nam) cùng thượng 
quốc (nước Nhật Bản) qua lại giao thương, đến nay cũng đã từ lâu. [Trầm] hương, ngà voi, da 
cá, đường ngọtđều là món hàng nước tôi dùng xuất khẩu. Các vật liệu đồng (kim loại) tất đất 
của quý quốc sản sinh, lấy cái mình sở hữu để trao đổi chẳng lẽ không được ư!” [11]. 
 Năm 1694, quốc vương Đàng Trong có gửi một bức thư và một cân kỳ nam cho 
quan trấn thủ đảo Trường Kỳ (Nagasaki) để cám ơn về việc quan chức này đã trao trả 
lại 09 người Việt bị lâm nạn trôi dạt vào vùng biển Nhật Bản trở về Đàng Trong trên 
chiếc thuyền buôn của người Hoa tên là Lý Tài [12]. Đây có lẽ là bức thư cuối cùng 
mang tính chất ngoại giao - thương giữa Đàng Trong với chính quyền Nhật Bản. 
 Có thể nói, vào nửa sau thế kỷ XVII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với 
Nhật Bản dường như bị gián đoạn hoàn toàn. Các thư từ ban giao giữa hai bên không 
còn, và người ta cũng không còn thấy thương nhân Nhật Bản trên những thuyền buôn 
đến cập bến cảng Đàng Trong tấp nập như những thập niên đầu của thế kỷ XVII – thời 
kỳ phát đạt nhất trong quan hệ thương mại giữa hai nước. 
 Như vậy, có thể thấy, ở thế kỷ XVI – XVII, chúa Nguyễn ở Đàng Trong chủ 
trương thực hiện chính sách mở cửa, phát triển mạnh về ngoại thương. Thương nhân 
nước ngoài từ Đông sang Tây đã tấp nập đến Đàng Trong để mua bán, trao đổi hàng 
hóa. Trong quan hệ thương mại với các nước phương Đông, Đàng Trong đẩy mạnh 
việc thiết lập quan hệ buôn bán với Trung Quốc và Nhật Bản – hai đối tác thương mại 
quan trọng. Tuy nhiên, ở thế kỷ XVIII, quan hệ thương mại giữa Đàng Trong với Nhật 
Bản bị gián đoạn; còn quan hệ thương mại với Trung Quốc cũng dần trở nên mờ nhạt. 
Và cũng trừ đây, ngoại thương Đàng Trong bước vào giai đoạn suy yếu trong quan hệ 
buôn bán với các nước bên ngoài. 
 73 
Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời Chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Duy Chính (2016), Xứ Đàng Trong thời chúa Nguyễn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
[2]. Nguyen Quoc Dinh (1941), Les congrégations chinoises en Indochine francaise, Paris. 
[3]. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dục, Hà Nội 
[4]. Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[5]. Vũ Minh Giang (1991), “Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An”, in trong Đô 
 thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[6]. C. B. Maybon (2011), Những người châu Âu ở nước An Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. 
[7]. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[8]. Nguyễn Thanh Nhã (2015), Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, Nguyễn Nghị 
 dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
[9]. Nöel. Péri (1923), Essai sur les relations du Japon et de l'Indochine aux XVIe et XVIIe siècles, In 
 Bulletin de l'Ecole française, d'Extrême-Orient, Tome 23. 
[10]. Li Tana (1999), Xứ Đàng Trong, Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, Tp 
 Hồ Chí Minh, 
[11]. Cận Đằng Thủ Trọng, An Nam Quốc thư, Bức thư thứ 46, bản dịch tr.137-139. Tư liệu Đề tài 
 Nghiên cứu biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam, tập XI, Mã số KX LSVN.11/14-18. 
[12]. Cận Đằng Thủ Trọng, An Nam Quốc thư, Bức thư thứ 47, bản dịch, tr. 140-142. Tư liệu Đề 
 tài Nghiên cứu biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam, tập XI, Mã số KX LSVN.11/14-18. 
 74 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 3 (2020) 
TRADE RELATIONS BETWEEN DANG TRONG (INNER REGION) WITH CHINA 
 AND JAPAN DURING THE NGUYEN DYNASTY 
 Ho Chau 
 University of Sciences, Hue University 
 Email: hochausu@gmail.com 
 ABSTRACT 
 During the 16th and 18th centuries, the Nguyen Dynasty in Dang Trong (Inner 
 Region) implemented an open-door policy, promoting foreign trade, and entering 
 the regional market and the world sea trade. During this period, many foreign 
 merchants from both Western and Oriental countries came to Dang Trong to 
 establish trade relations, among which the reations with China and Japan were the 
 strongest. The presence of traders from these two countries exerted a significant 
 impact on different aspects of Dang Trong, including the politics, military, 
 economy, socio-cultural practices, and urban development. 
 Keywords: Dang Trong, foreign trade, the Nguyen Lords. 
 Hồ Châu sinh ngày 20/4/1987 tại Thừa Thiên Huế. Ông nhận bằng Cử 
 nhân năm 2011 và bằng Thạc sĩ năm 2013 tại Trường Đại học Sư phạm, 
 Đại học Huế. Hiện ông đang công tác tại Trường Chính trị tỉnh Thừa 
 Thiên Huế 
 Lĩnh vực nghiên cứu: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; Đàng Trong thời 
 chúa Nguyễn. 
 75 
Quan hệ thương mại giữa Đàng Trong thời Chúa Nguyễn với Trung Quốc và Nhật Bản 
 76 

File đính kèm:

  • pdfquan_he_thuong_mai_giua_dang_trong_thoi_chua_nguyen_voi_trun.pdf