Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử

Tư tưởng con người trong triết học của Khổng Tử được hình thành và phát triển trong

một giai đoạn lịch sử Trung Quốc thời cổ đại mang tính bước ngoặt. Sự chuyển đổi toàn diện của

đất nước Trung Quốc lúc bấy giờ đã làm cho xã hội loạn lạc. Trước thực trạng đó các nhà tư tưởng

đua nhau tìm kiếm phương pháp để ổn định xã hội. Tuy đứng trên lập trường giai cấp khác nhau,

nhưng các nhà tư tưởng đều có điểm chung là họ đều bắt đầu từ việc giải thích bản tính của con

người. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định bởi sự chi phối của lịch sử, những quan điểm về

con người trong triết học của Khổng Tử cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu xã hội lúc bấy giờ và đến

nay vẫn còn nguyên giá trị

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 1

Trang 1

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 2

Trang 2

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 3

Trang 3

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 4

Trang 4

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 5

Trang 5

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 6

Trang 6

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 4100
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử

Quan điểm về con người trong triết học của Khổng Tử
 của thời kỳ phong kiến phân quyền 
để nhường chỗ cho thời kỳ phong kiến 
trung ương tập quyền. Thực trạng đó đã làm 
xuất hiện các xu thế như: (1) Các nhà tư 
tưởng chủ trương pháp trị ra sức ủng hộ các 
thế lực địa chủ mới lên; (2) Các nhà tư 
tưởng chủ trương đức trị thì muốn níu giữ 
chế độ lễ trị của nhà Chu; (3) Các nhà tư 
tưởng chủ trương vô vi vì bất mãn với thực 
tại nên họ quay lưng với thế sự. Khổng Tử 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2020 
 42
được sinh ra trong cảnh cơ hàn nhưng thuộc 
dòng dõi quyền quý ở nước Lỗ, một đất 
nước nhỏ bé nhưng có bề dày văn hóa dưới 
thời nhà Chu. Như vậy ông là người đại 
diện tiêu biểu cho xu hướng thứ hai và ông 
đã đưa ra quan điểm về con người dựa trên 
cơ sở bản tính con người vốn thiện để lý 
giải về xã hội. 
Để có quan điểm về con người một cách 
đúng đắn Khổng Tử đã bắt đầu lý giải về 
nguồn gốc, vai trò, vị trí và bản tính của 
con người. Quá trình nhận thức về nguồn 
gốc con người là một vấn đề khó khăn đòi 
hỏi phải trải qua một quá trình phát triển 
của nhân loại thì mới có thể lý giải một 
cách đúng đắn. Tuy nhiên, Khổng Tử đã có 
cái nhìn về con người một cách khá toàn 
vẹn khi bắt đầu lý giải con người sinh ra từ 
đâu. Trên quan điểm con người là một bộ 
phận không thể tách rời với tự nhiên, 
Khổng Tử cho rằng mọi sự vật, hiện tượng 
trong tự nhiên đều vận hành theo quy luật 
âm dương. Con người tồn tại cũng không 
nằm ngoài quy luật ấy, cho nên lấy cơ thể 
mà nói, thì con người phải nhất luật tuân 
theo những nguyên lý âm dương biến hóa 
của đạo trời và cương nhu tương thôi, của 
đạo đất. Việc dùng nguyên lý âm dương để 
lý giải cho nguồn gốc ra đời của con người 
của Khổng Tử đã thể hiện quan điểm duy 
vật chất phác góp phần vào việc chống lại 
quan điểm duy tâm thần bí. Khổng Tử đã 
xem giới tự nhiên là một phần không thể 
thiếu trong quá trình xuất hiện của loài 
người là một quan điểm hết sức tiến bộ lúc 
bấy giờ. 
Trong quan điểm của mình Khổng Tử đề 
cao vai trò và vị trí của con người trong xã 
hội. Ông xem con người là vấn đề quan 
trọng nhất dẫn đến sự thịnh, suy của một 
triều đại. Tuy nhiên, Khổng Tử cho rằng 
mỗi con người trong xã hội đều có một vai 
trò nhất định. Vai trò đó của mỗi con người 
là không giống nhau nên con người có 
những suy nghĩ và hành động khác nhau. 
Ông chia xã hội thành hai loại người, đó là 
người quân tử và kẻ tiểu nhân, người quân 
tử có vai trò dẫn dắt, còn kẻ tiểu nhân có 
vai trò tuân theo. Nếu đặt con người trong 
mối quan hệ với tự nhiên thì con người lại 
có vai trò phụ thuộc vì Khổng Tử xem trời 
là đấng tối cao vô thượng nên con người 
phải luôn phục tùng mệnh lệnh và ý chí của 
trời. Từ sinh tử, thọ yểu, may rủi, họa phúc, 
quý tiện của sinh mệnh và số phận con 
người đến sự còn mất, hưng vong của các 
triều đại đều do trời chi phối. Khổng Tử đề 
cao Thiên mệnh và ông cho rằng con người 
phụ thuộc vào Thiên mệnh “đạo ta nếu 
được lưu hành, ấy cũng do mạng trời. Đạo 
ta nếu phải vong phế, ấy cũng do nơi mạng 
trời” [5, tr.233]. Do tin vào Thiên mệnh nên 
Khổng Tử coi sự hiểu biết và hành động 
của con người theo mệnh trời là điều kiện 
tất yếu để trở thành người hoàn thiện. Bởi 
“chẳng hiểu mạng trời, chẳng đáng gọi là 
quân tử” [5, tr.315]. Do tin vào mệnh trời 
nên Khổng Tử đánh giá vị trí của con người 
trong thế giới là hoàn toàn phụ thuộc 
“người quân tử có ba điều kính: kính sợ 
mạng trời, kính sợ bậc đại nhân, tức là 
người chức phận lớn, đức hạnh cao; kính sợ 
lời dạy của thánh nhân” [5, tr.263]. Tuy 
nhiên, theo Khổng Tử thì trời - người - quỷ 
thần có mối quan hệ với nhau. Trong đó 
quan hệ giữa trời và người là một trong 
 Võ Văn Dũng 
 43 
những giá đỡ hữu hiệu để các thế lực trong 
xã hội thần thánh hóa vai trò của người 
đứng đầu. Trên giá đỡ đó, các nhà tư tưởng 
đã cố gắng biện hộ cho quyền lực và sức 
mạnh của thế lực cầm quyền trên mặt đất. 
Và nhà vua có vai trò là cầu nối quan trọng 
giữa các thế lực siêu nhiên với dân chúng. 
Mặt khác Khổng Tử cũng thấy được vai trò 
của con người trong việc cải tạo thế giới 
chính vì thế, ông cố ý tránh né nói đến cái 
chết, khuyên con người hãy quay trở về 
sống thực, sống cho đúng đạo làm người. 
Từ đó ông đề cao trí tuệ của cá nhân để 
giúp con người trong xã hội hiện thực. 
Khổng Tử cho rằng xã hội Trung Quốc 
rơi vào cảnh loạn lạc là do con người vô 
đạo, không chính danh định phận. Để có thể 
khắc phục được thực trạng đó thì cần phải 
đề cao giáo dục sự thiện tính trong mỗi con 
người. Khổng Tử cho rằng bản tính con 
người khi sinh ra gần như nhau nhưng do 
điều kiện sống mà có sự khác biệt. Tính “là 
cái nguyên lý sở dĩ sinh ra người; là tính 
chất, bản chất của người hay của vật” [1, 
tr.738]. Với quan điểm đó thì tính là cái trời 
phú cho con người khi mới sinh ra. Trong 
Luận ngữ, Khổng Tử viết: “Con người ta 
sinh ra, cái bẩm tánh vốn ngay thật. Nếu họ 
tà khúc mà sống được, đó là họ may mắn 
khỏi chết đói thôi” [5, tr.93]. “Theo quan 
niệm đó, Khổng Tử nhận định, về cơ bản 
thì bản tính con người giống nhau, ai cũng 
có tính lành. Tính lành làm cho mọi người 
gần nhau và tránh xa điều ác” [2,tr.60]. Như 
vậy, theo Khổng Tử, bản tính con người là 
ngay thẳng, là hài hòa, hết lòng thành thực 
với mình và đem lòng thành thực của mình 
để đối đãi với người. Khổng Tử luôn đề cao 
bản tính, phẩm chất tốt đẹp, ngay thẳng của 
con người, với hệ thống các phạm trù đạo 
đức như: nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, trung 
hiếu, kính đễ... Từ đó ông cố gắng xây 
dựng một mẫu người lý tưởng cho xã hội 
gọi là người quân tử. 
Xuất phát từ quan niệm về nguồn gốc, 
bản tính và vai trò, vị trí con người Khổng 
Tử đã đưa ra quan điểm về giáo dục con 
người trong tư tưởng triết học của ông. Mục 
đích của giáo dục là làm cho con người 
sống đúng với chính danh định phận, đưa 
con người vô đạo trở về có đạo. Ông đã 
khái quát và phân chia các mối quan hệ xã 
hội ra thành những mối quan hệ như: vua 
tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. 
Giữa các mối quan hệ đó, đều được quy 
định bởi những chuẩn mực, giá trị đạo đức 
nhất định, để đảm bảo cho người nào cũng 
có trách nhiệm, bổn phận chính đáng của 
người ấy. Trong đó, vua phải huệ, tôi phải 
trung, cha phải từ, con phải hiếu, chồng tình 
nghĩa, vợ phải tòng, anh lương, em kính đễ, 
bạn bè phải tín nghĩa. Để xã hội ổn định 
theo Khổng Tử, ai mang danh nào thì phải 
sống và làm việc với đúng với cái danh đó. 
Phương pháp hiệu quả nhất để ổn định trật 
tự xã hội là phải thực hiện giáo hóa đạo đức 
bằng lễ nghĩa cho mọi người chứ không 
phải bằng hình pháp. Vì: “Nếu nhà cầm 
quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà 
dẫn dắt dân chúng; chuyên dùng hình phạt 
mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm phép 
đó thôi, chớ họ chẳng biết hổ ngươi. Vậy 
muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền 
phải dùng đức hạnh; muốn trị dân, nhà cầm 
quyền phải dùng lễ tiết” [5, tr.15]. Theo 
Khổng Tử, con người nếu không được giáo 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2020 
 44
dục, thì dù tâm có tốt đẹp, ngay thẳng như 
thế nào đi nữa thì cũng bị cái ngu muội, 
phóng đãng, lầm lạc, phản loạn che lấp. 
Trong lúc xã hội loạn lạc không ra làm 
quan giúp dân cứu đời không phải là người 
trí, không phải là người nhân. Như vậy giáo 
dục được xem như phương tiện quan trọng 
để khẳng định vai trò và vị trí của con 
người trong thế giới. 
3. Giá trị quan điểm về con người trong 
triết học của Khổng Tử 
Từ việc nghiên cứu nội dung quan điểm 
về con người trong tư tưởng triết học của 
Khổng Tử chúng tôi nhận thấy vấn đề con 
người đã được ông nghiên cứu khá sâu sắc, 
toàn diện về nguồn gốc, bản chất, vai trò, vị 
trí của con người để từ đó cho rằng cần phải 
giáo dục con người để phát huy vai trò nhận 
thức thế giới và ổn định xã hội. Thông qua 
việc nghiên cứu đó, chúng tôi rút ra một số 
giá trị sau: thứ nhất, tư tưởng con người 
trong triết học của Khổng Tử mang tính 
nhân văn, bởi lẽ Khổng Tử đã luôn đặt con 
người ở vị trí trung tâm, luôn đề cao con 
người và quan tâm giáo dục con người. 
Trong tư tưởng triết học Khổng Tử mặc dù 
đứng trên lập trường, địa vị và lợi ích của 
giai cấp thống trị, nhưng là xuất phát từ con 
người, luôn lấy con người làm trung tâm. 
Trên quan điểm đó chúng ta thấy con người 
trong triết học Khổng Tử có mục đích vươn 
tới làm chủ chính mình. Khổng Tử cho 
rằng, nhà cầm quyền muốn phát triển đất 
nước thì cần phải phát huy nhân tố con 
người. Một đất nước sẽ không thể phát triển 
nếu như nhà cầm quyền không đề cao và 
phát huy đúng đắn vai trò, vị trí của con 
người trong sự phát triển xã hội. Để phát 
huy nhân tố con người thì cần phải đề cao 
vai trò của giáo dục. Mục đích của việc giáo 
dục là để phát huy thiện tính trong mỗi con 
người. Như vậy, tính nhân văn trong tư 
tưởng về con người của Khổng Tử không 
chỉ dừng lại ở việc mang lại cho con người 
có cuộc sống tốt đẹp, xây dựng xã hội thịnh 
trị mà còn hoàn thiện hệ giá trị của con 
người. Khổng Tử đề cao những chuẩn mực 
tri thức, đạo đức con người trong triết học 
để khẳng định đề cao vai trò, vị trí của nhân 
dân đã thể hiện được tầm vóc nhất định của 
ông; thứ hai, tư tưởng con người trong triết 
học của Khổng Tử mang tính đa dạng. Ông 
đã cố gắng nghiên cứu con người trên nhiều 
phương diện, cả về nguồn gốc, bản tính và 
vai trò, vị trí của con người trong thế giới 
nói chung và trong xã hội nói riêng, cũng 
như trong việc cố gắng đưa ra các phương 
pháp, cách thức khác nhau để giáo hóa con 
người. Trên quan điểm con người vốn 
thiện, Khổng Tử đã chủ trương nhân trị và 
đức trị để cải biến xã hội đáp ứng nhu cầu 
lịch sử xã hội thời Xuân Thu - Chiến quốc 
đặt ra. Khổng Tử nghiên cứu về con người 
với mục đích “tề gia, trị quốc, bình thiên 
hạ”. Vì vậy mà ông luôn đề cao vai trò của 
con người trong tự nhiên và xã hội. Đó là 
quan điểm tiến bộ, cố gắng thoát khỏi sự 
chi phối của thế giới quan thần quyền phổ 
biến ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Khổng Tử 
đã quan tâm đến con người, đi tìm các giá 
trị, chuẩn mực về tri thức, đạo đức và cả giá 
trị về mặt xã hội của con người, giáo dục, 
cải hóa con người theo các chuẩn mực giá 
 Võ Văn Dũng 
 45 
trị đó để hoàn thiện con người thành mẫu 
người lý tưởng có đầy đủ yếu tố “nhân”, 
“nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”, hiểu biết đạo lý, 
thực hiện đạo lý, góp phần xây dựng một xã 
hội lý tưởng, có trật tự, cương thường, thái 
bình, thịnh trị; thứ ba, tư tưởng con người 
trong triết học của Khổng Tử mang tính 
hiện thực. Khổng Tử luôn coi sinh mệnh, 
sự sống con người là đáng quý, đáng trân 
trọng nhất do vậy ông chủ trương dùng 
giáo hóa con người thay cho luật pháp. 
Ông cho rằng, nhà cầm quyền muốn xã hội 
ổn định thì phải đem cái đức ra để mà cai 
trị thì dân sẽ trở nên lương thiện. Khổng 
Tử nhấn mạnh việc dùng người hiền tài để 
cai trị đất nước vì theo ông những người 
hiền tài có khả năng cảm hóa những kẻ tàn 
bạo trong xã hội trở nên hiền lương. 
Khổng Tử cũng cho rằng, mỗi con người 
phải biết quý sinh mạng của mình, và khi 
biết quý sinh mạng của bản thân thì mới có 
thể quan tâm, giữ gìn, bảo vệ sinh mạng và 
mưu sự giúp người khác. Còn những người 
sống không biết trân quý sinh mạng của bản 
thân thì không thể là người hiện thực và 
không thể cai trị được đất nước. 
Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử bước 
đầu đã trở thành một hệ thống lý luận chặt 
chẽ. Trong đó ông đã nêu ra quan niệm toàn 
diện về con người, Ông nhấn mạnh yếu tố 
bên trong hơn bề ngoài của con người. 
Quan niệm về con người, bản tính của con 
người, nhìn nhận con người không chỉ 
thuần tuý dựa vào lời nói mà kết hợp giữa 
động cơ và hiệu quả, giữa lí trí và tình cảm. 
Về nội dung giáo dục, Khổng Tử đã đưa ra 
những nội dung đạo đức hết sức sâu sắc 
như nhân, lễ, nghĩa, chính danh v.v.. Để 
truyền dạy một cách có hiệu quả Khổng Tử 
đã đề xuất một hệ thống phương pháp giáo 
dục khá chặt chẽ với những kiến giải sinh 
động và sâu sắc. 
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị mà 
chúng tôi đã đề cập ở trên thì vấn đề con 
người trong triết học Khổng Tử vẫn còn 
một số hạn chế nhất định như: (1) Tư tưởng 
con người trong triết học của Khổng Tử 
mang tính chất duy tâm. Khổng Tử cho 
rằng mọi sự biến hóa của vạn vật trong tự 
nhiên cũng như trong đời sống xã hội kể cả 
con người đều do thiên mệnh và ý chí của 
quỷ thần chi phối. Chỉ có vua là người thừa 
lệnh trời, thay trời cai trị trên mặt đất do 
vậy con người tuyệt đối phục tùng mệnh 
lệnh ý chí của nhà vua. Nếu người dân vì 
bất cứ lý do gì mà không tuân mệnh thì trời 
và quỷ thần sẻ trừng phạt nghiêm khắc, 
gieo xuống đầu nhân dân những tai họa 
nặng nề; (2) Tư tưởng con người trong triết 
học của Khổng Tử mang tính đẳng cấp. 
Khổng Tử rất coi trọng việc giáo dục đạo 
đức cho con người, nhưng ông mới chỉ dừng 
lại ở việc giáo dục cho giai cấp thống trị mà 
chưa thấy được vai trò của giáo dục đối với 
người dân. Ông cho rằng chỉ có người quân 
tử (tức giai cấp thống trị) mới có thể trở 
thành con người hoàn thiện còn kẻ tiểu nhân 
(tức nhân dân lao động) không thể trở thành 
con người hoàn thiện được. Tính đẳng cấp 
trong quan niệm về con người của Khổng Tử 
đã bộc lộ hạn chế khi chỉ công nhận giai cấp 
thống trị là “con người nguyên nghĩa” còn 
giai cấp bị trị vô tình trở thành “con người 
khiếm khuyết”. Tuy nhiên, việc nghiên cứu 
về tư tưởng cần phải có quan điểm lịch sử cụ 
thể để đánh giá đúng giá trị của nó. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 - 2020 
 46
4. Kết luận 
Tư tưởng về con người của triết học Khổng 
Tử là sản phẩm được hình thành và phát 
triển trên cơ sở đặc điểm và yêu cầu tất yếu 
của lịch sử xã hội Trung Quốc thời cổ đại. 
Đây là thời kỳ mang tính bước ngoặt lịch sử 
và đòi hỏi tư tưởng phải thích nghi. Chính 
trong thời đại lịch sử biến đổi lớn lao đó đã 
kích thích tài trí của các nhà tư tưởng phát 
triển. Khổng Tử đã tập trung làm rõ những 
nội dung lớn và rất cơ bản về con người, 
như nguồn gốc, vai trò, vị trí và bản tính 
con người trong thế giới nói chung và trong 
xã hội nói riêng. Thông qua việc lý giải về 
bản tính của con người là thiện tính, Khổng 
Tử đã đề ra quan điểm về giáo dục với hy 
vọng có thể cải biến xã hội. Tư tưởng về 
con người của triết học Khổng Tử mặc dù 
còn nhiều hạn chế do thế giới quan và sự 
quy định của lịch sử nhưng nó đã góp phần 
chống lại quan điểm duy tâm về con người. 
Bên cạnh đó tư tưởng về con người của triết 
học Khổng Tử là một trong những tư tưởng 
đặt nền móng cho việc nghiên cứu con 
người về sau. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Doãn Chính (2009), Từ điển triết học Trung 
Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Võ Văn Dũng (2019), Tư tưởng chính trị thời 
Tiên Tần và giá trị của nó, Nxb Lý luận Chính 
Trị, Hà Nội. 
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, t.1, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Khổng Tử (2004), Kinh thư, Nxb Văn hóa 
Thông tin, Hà Nội. 
[5] Khổng Tử (2006), Tứ thư, Nxb Thuận hóa, Huế. 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_ve_con_nguoi_trong_triet_hoc_cua_khong_tu.pdf