Quan điểm Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
Bài viết tập trung làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc
trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã
hội vào Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam
n thấy sự cần thiết phải bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác. 2.2. Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Ngƣời cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung 1 Hội đồng Trung ƣơng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.96-97. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |212 sƣớng, ai nấy đƣợc đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động đƣợc thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần đƣợc xóa bỏ (ví dụ: lấy vợ, lấy chồng sớm quá, cúng bái, liên hoan lu bù, lƣời biếng...). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”2. Nhƣ vậy, chủ nghĩa xã hội là những cái rất cụ thể, vừa mang tính trƣớc mắt, vừa lâu dài, vừa là công việc hàng ngày của mỗi ngƣời dân và cũng là của toàn dân tộc. Chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là xóa bỏ những cái xấu, phát triển những cái tốt với mục đích vì con ngƣời và hƣớng tới xây dựng một xã hội hòa thuận, hạnh phúc. Từ định nghĩa trên, Hồ Chí Minh đã đƣa ra quan niệm về những đặc trƣng thể hiện bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với 5 nội dung chủ yếu: Thứ nhất, về chế độ chính trị. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chế độ xã hội do nhân dân lao động làm chủ. Hồ Chí Minh cho rằng: “Nƣớc ta là nƣớc dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”3. Vì dân là chủ, nên dân là ngƣời có vị thế cao nhất trong xã hội và mọi quyền hành, lực lƣợng đều ở nơi dân. Trong chế độ chính trị dân chủ, dân là ngƣời bầu ra chính phủ, quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ”, “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân"4, thậm chí, "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ"5. Chính bởi dân là chủ nhân của đất nƣớc, nên nhà nƣớc phải là của dân, do dân, vì dân và “Cán bộ từ Trung ƣơng đến xã đều phải là ngƣời đầy tớ trung thành của nhân dân”6; “Cán bộ từ Trung ƣơng đến khu, đến tỉnh, huyện và xã đều phải một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của nhân dân, chứ không phải là “quan cách mạng”"7. Dân là chủ, nên các cơ quan nhà nƣớc phải luôn dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân Nhà nƣớc phải có trách nhiệm quan tâm đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không lạm dụng quyền lực, không đặc quyền, đặc lợi, không đƣợc “đè đầu dân nhƣ trong thời kỳ dƣới quyền thống trị của 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.438. 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.434. 4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.375. 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.75. 6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.110. 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.93. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 213| Pháp, Nhật"8 mà phải thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính và “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh"9 - làm tốt đƣợc điều này, thì nhà nƣớc mới xứng đáng là nhà nƣớc vì dân và cán bộ, đảng viên mới xứng đáng là ngƣời đày tớ thật trung thành của nhân dân. Thứ hai, về nền kinh tế. Chủ nghĩa xã hội là xây dựng nền kinh tế phát triển cao với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Sự phát triển của kinh tế đƣợc dựa trên chế độ công hữu về tƣ liệu sản xuất chủ yếu với “nhà máy, xe lửa, ngân hàng, làm của chung”. Tính ƣu việt của chủ nghĩa xã hội trong phát triển kinh tế, theo quan điểm Hồ Chí Minh là: “trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, cách bóc lột theo chủ nghĩa tƣ bản đƣợc xóa bỏ dần, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày càng đƣợc cải thiện”10. Nhƣ vậy, xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhằm mục đích xóa bỏ dần bóc lột và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân - tức là đảm bảo đem lai tự do, hạnh phúc thật sự cho mọi ngƣời. Thứ ba, về văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là xã hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa mới ở Việt Nam phải có tính chất: “xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”11. Xã hội chủ nghĩa về nội dung thể hiện ở tính khoa học, hiện đại của nền văn hóa. Đồng thời, để có nền hóa mới, hiện đại thì cần tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nền văn hóa mới phải luôn phù hợp với trào lƣu tiến hóa của nhân loại trong thời đại mới. Tính dân tộc của nền văn hóa là giữ gìn, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Nền văn hóa mới phải phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, mang đậm tính nhân văn, nhân đạo của dân tộc và do nhân dân xây dựng. Đồng thời, văn hóa phải "thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tƣơi lành mạnh của quần chúng"12. Nhƣ vậy, nền văn hóa mới ở Việt Nam là sự tổng hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và quốc tế. 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.65. 9 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.51. 10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.376. 11 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.471. 12 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.470. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |214 Thứ tư, về con ngƣời. Hồ Chí Minh cho rằng: chủ nghĩa xã hội là "một xã hội không có chế độ ngƣời bóc lột ngƣời, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động"13. Đặc trƣng tốt đẹp nhất của chủ nghĩa xã hội chính là xã hội do con ngƣời và vì con ngƣời, là một xã hội mà ở đó con ngƣời đƣợc giải phóng triệt để, mọi ngƣời đều đƣợc tự do, hạnh phúc và có điều kiện phát triển mọi khả năng của bản thân. Trong nhiệm vụ giải phóng con ngƣời nói chung, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giải phóng phụ nữ, bởi: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài ngƣời. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”14. Nhƣ vậy, theo Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ có tầm quan trọng đặc biệt và chính là một nửa của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng phụ nữ phải luôn đi song hành với nhau bởi họ chính là một nửa nhân loại, một lực lƣợng có sức mạnh quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, nếu không giải phóng phụ nữ thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ khó thành công và cũng không thể gọi là có chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, tƣ tƣởng về giải phóng phụ nữ của Hồ Chí Minh đã khắc phục đƣợc hạn chế của Nho giáo và thực tiễn xã hội lúc bấy giờ - xã hội trọng nam, khinh nữ. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để Đảng và Nhà nƣớc đề ra chủ trƣơng, đƣờng lối và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ giải phóng phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh đề cao sự nghiệp giải phóng con ngƣời, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự công bằng, bình đẳng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là xã hội phải thực sự công bằng, bình đẳng giữa mọi ngƣời với nhau. Sự công bằng đƣợc thể hiện trƣớc tiên trong phân phối thu nhập của xã hội, thể hiện ở: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên trừ những ngƣời già cả, đau yếu và trẻ em”15. Từ quan điểm này của Hồ Chí Minh, có thể thấy sự công bằng, bình đẳng trong lao động và hƣởng thụ - “làm theo năng lực, hƣởng theo lao động” là vấn đề tất yếu giữa những con ngƣời bình thƣờng với nhau. Với những đối tƣợng đặc biệt nhƣ: “già cả, đau yếu và trẻ em” thì cần chế độ chính sách của Nhà nƣớc và sự quan tâm hỗ trợ của cộng đồng. Xem công bằng, bình đẳng là động lực cho sự phát triển của xã hội, nên Hồ Chí Minh nhấn mạnh: 13 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.241. 14 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.300. 15 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.390. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 215| “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”16. Nhƣ vậy, công bằng không phải là cào bằng bình quân chủ nghĩa, giỏi kém nhƣ nhau, làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội, là “trái với chủ nghĩa xã hội”. Thứ năm, về quan hệ quốc tế. Việt Nam luôn nhất quán đƣờng lối đối ngoại rộng mở, “làm bạn với tất cả mọi nƣớc dân chủ và không gây thù oán với một ai”17. Nhƣ vậy, theo Hồ Chí Minh, chính sách đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với mọi nƣớc dân chủ” - làm bạn với tất cả các nƣớc xã hội chủ nghĩa (dân chủ nhân dân) và tƣ bản chủ nghĩa (dân chủ tư sản) để cùng nhau “giữ gìn hòa bình” cho thế giới. Trên cơ sở quan điểm về đƣờng lối đối ngoại rộng mở, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa thành quan điểm chỉ đạo trong quan hệ với các nƣớc trên thế giới từ nửa cuối những năm 40 của thế kỳ XX. Trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” năm 1946, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dƣới đây: 1. Đối với Lào và Miên, Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nƣớc đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nƣớc có chủ quyền. 2. Đối với các nƣớc dân chủ, nƣớc Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trên mọi lĩnh vực: a) Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tƣ của các nhà tƣ bản, nhà kỹ thuật nƣớc ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nƣớc Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đƣờng sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) Nƣớc Việt Nam chấp nhận sự tham gia của mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dƣới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc. d) Nƣớc Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lƣợng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ƣớc liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân”18. Từ những nguyên tắc trên, Hồ Chí Minh đã xác định quan điểm về mối quan hệ với một số quốc gia có tầm ảnh hƣởng lớn và gần gũi với Việt Nam nhƣ: với ngũ 16 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.224. 17 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.256. 18 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.523. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |216 cƣờng - Việt Nam giữ “thái độ bạn bè”; với các nƣớc châu Á - coi nhƣ những ngƣời “anh em”; với nƣớc Pháp - Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp, với tƣ bản hay công nhân, thƣơng gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ đƣợc nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ nhƣ anh em bầu bạn. Với Trung Quốc - một nƣớc có quan hệ lịch sử lâu đời và có nhiều điểm tƣơng đồng về văn hóa với Việt Nam, phát huy tinh thần hòa hiếu của cha ông, Hồ Chí Minh đã hoạt động tích cực cùng với lãnh đạo Trung Quốc xây dựng và vun đắp cho mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Để xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ với tất cả các nƣớc trên thế giới, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản: đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình - đoàn kết phải luôn đảm bảo đem lại lợi ích chung cho mọi quốc gia, coi đây chính là mẫu số chung quan trọng nhất. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng - đoàn kết quốc tế nhƣng không trông chờ, ỷ nại vào ngƣời khác, mà “Muốn ngƣời ta giúp cho thì trƣớc hết mình phải tự giúp lấy mình đã”19. Những quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh là tƣ tƣởng chỉ đạo, “nền móng” cho đƣờng lối đối ngoại rộng mở, đa phƣơng hóa, đa dạng hóa các quan hệ, chủ động hội nhập quốc tế với phƣơng châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nƣớc và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới, tại Đại hội VII (6/1991), lần đầu tiên, Đảng đã xác định các đặc trƣng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sau đó tiếp tục đƣợc bổ sung, phát triển qua các Đại hội, đặc biệt tại Đại hội XI (1/2011). Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đƣợc Đảng xác định có 8 đặc trƣng cơ bản: Dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lƣợng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con ngƣời có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc trên thế giới20. 19 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.320. 20 cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam -2011-1528 “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 217| III. KẾT LUẬN Thực tiễn thắng lợi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nƣớc trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt kể từ khi thực hiện Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội VII, 6/1991) cho thấy sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đặc trƣng bản chất của chủ nghĩa xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hội đồng Trung ƣơng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
File đính kèm:
- quan_diem_ho_chi_minh_ve_dac_trung_ban_chat_cua_chu_nghia_xa.pdf