Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công nghiệp hóa và vận dụng ở Việt Nam
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin coi công nghiệp hóa là “tất yếu thép” mà
tất cả các nước muốn đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua. Đối với những nước bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa như Việt Nam, vai trò của công nghiệp hóa càng quan trọng. Muốn đề ra đường
lối công nghiệp hóa đúng đắn, những người cộng sản phải nắm vững những quy luật chung của
công nghiệp hóa mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã đúc kết, và vận dụng sáng tạo quy luật đó vào thực
tiễn của đất nước mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công
nghiệp hóa đã thể hiện rõ tinh thần khoa học đó.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công nghiệp hóa và vận dụng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về công nghiệp hóa và vận dụng ở Việt Nam
ao của đất nước theo hướng hiện đại và thực trạng kinh tế - xã hội thấp kém của đất nước. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết bằng quá trình công nghiệp hóa. Bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã xác định rõ rằng, công nghiệp hóa là “con đường phải đi của chúng ta” [7, tr.445], “là con đường no ấm thực sự của nhân dân” [7, tr.445]. Chủ động thực hiện một nhiệm vụ mang tính quy luật, nhưng do thấu hiểu đặc điểm của Việt Nam (một nước nông nghiệp với cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức lạc hậu và đang có chiến tranh ác liệt), Hồ Chí Minh đã đề ra bước đi trong công nghiệp hóa. Người nói: trong giai đoạn đầu của qúa trình công nghiệp hóa, nước ta “phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” [7, tr.635]; phải phát triển cả tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu cho dân và tạo sự tích lũy từng bước; khi các ngành kinh tế đó đã ổn định thì phải đầu tư cho công nghiệp nặng, “công nghiệp nặng là đầu mối để mở mang các ngành công nghiệp khác và cung cấp máy móc cho nông nghiệp. Cho nên, chưa có công nghiệp nặng, thì chưa thể gọi là công nghiệp hóa. Chưa có công nghiệp nặng thì chưa thể có một nền kinh tế tự chủ và giàu mạnh được” [7, tr.449- 450]. Rõ ràng là, Hồ Chí Minh đã nhận thấy tầm quan của công nghiệp nặng, nhưng Người cũng linh hoạt trong việc lựa chọn cơ cấu, bước đi đầu tiên để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa. Về vấn đề tốc độ công nghiệp hóa, ngay ở thời điểm Trung Quốc và Liên Xô chủ trương tăng tốc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh vẫn cho rằng: “Công nghiệp hóa phải tiến hành dần dần. Nếu muốn công nghiệp hóa gấp thì là chủ quan” [8, tr.442] vì điều kiện của nước ta rất khó khăn. Rất tiếc là, trong một thời gian khá dài, tư tưởng đúng đắn đó của Hồ Chí Minh về cơ cấu và bước đi trong công nghiệp hóa đã không được thực hiện. Kết quả là, nền nông nghiệp Việt Nam không phát huy được thế mạnh, và công nghiệp nặng phát triển không hiệu quả. Với một nước có thế mạnh về nông nghiệp thì “nông suy - bách nghệ bại”. Trong khi nông nghiệp còn yếu kém mà lại quá chú trọng đầu tư vào công nghiệp nặng, thì cách tiến hành công nghiệp hóa như vậy là sai lầm. 4. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Vì thế cho nên, quan điểm Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 16 của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là cơ sở lý luận cho đường lối công nghiệp hóa ở Việt Nam. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu của công nghiệp hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ trước Đổi mới, đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng theo mô hình Xô-viết. Đại hội Đảng VI của Đảng đã xác định rằng, muốn đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì Đảng phải đổi mới về tư duy, trong đó có tư duy về công nghiệp hóa. Với một tư duy mới, Đảng nhận thức rõ rằng, nền đại công nghiệp mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin nói đến là nền đại công nghiệp cơ khí, mô hình công nghiệp hóa mà họ đã chứng kiến là mô hình công nghiệp hóa cổ điển; trong thời đại mới cần tiến hành công nghiệp hóa theo cách mới. Quan điểm của Đảng về cách tiến hành công nghiệp hóa gồm các nội dung như sau. Thứ nhất, phải gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa. Đại hội Đảng VII (năm 1991) có bước tiến mới trong tư duy về công nghiệp hóa khi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội thông qua đề ra chủ trương “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại”. Cụ thể hóa nội dung đó, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1/1994), Đảng chính thức đưa ra khái niệm “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Theo đó, “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [1, tr.554]. Như vậy, Đảng chính thức gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, và xác định cần phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa cả lĩnh vực dịch vụ và quản lý, chứ không chỉ lĩnh vực sản xuất. Điều đó có nghĩa là, với lợi thế là người “đi sau”, Việt Nam cần bỏ qua các bước đi lỗi thời, các thế hệ công nghệ trung gian, cần đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất. Đại hội Đảng VIII (năm 1996) khẳng định rằng, đất nước đã bước sang chặng đường thứ hai, chặng đường “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Từ đó, Đảng đề ra mục tiêu mới, theo đó, đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội IX còn đề ra chủ trương rất đúng đắn rằng, trong quá trình công nghiệp hóa, cần “đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa)” [3, tr.112-113], chứ không “dàn đều” như trước. Với chủ trương này, Việt Nam cần chủ động phòng tránh nguy cơ trở thành “bãi rác thải công nghiệp” của thế giới. Thứ hai, phải gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội Đảng VIII đã xác định rõ: “Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [2, tr.85]. Đại hội X của Đảng (năm 2006) đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH, HĐH) “gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH” [4, tr.87]. Theo đó công Trần Thị Minh Tuyết 17 nghiệp hóa của Việt Nam sẽ chuyển từ việc dựa vào tài nguyên, vào vốn sang việc dựa vào nguồn lực trí tuệ con người; bởi tài nguyên thì có hạn, chỉ có tri thức của con người là vô hạn. Lúc này, Việt Nam cần “phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức” [4, tr.88-89] . Thứ ba, phải gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với hội nhập quốc tế. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế lớn của thời đại, là kết quả tất yếu do bản chất xã hội của lao động và sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong thời đại toàn cầu hóa, công nghiệp hóa phải tuân theo “hệ tiêu chí” và các cam kết quốc tế về một nước công nghiệp hiện đại. Đảng xác định rõ: trong quá trình hội nhập, Việt Nam phải vừa tranh thủ thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước mình, vừa phải tăng cường xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh và chú trọng xây dựng các “thương hiệu” lớn trên thị trường thế giới. Đại hội Đảng XI còn đề ra mục tiêu là, phải “tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu” [5, tr.193]. Thứ tư, phải gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền kinh tế thị trường. Trong thời kỳ Đổi mới, Đảng đã coi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam, và do đó, coi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn liền với mô hình đó. Đại hội Đảng VIII xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo” [2, tr.85]; phải sử dụng nguồn vốn xã hội hóa theo cơ chế thị trường cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; “phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ” [2, tr.85]. Thứ năm, phải đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp - nông thôn. Chủ nghĩa xã hội không chỉ giải phóng công nhân, mà còn giải phóng nông dân, và vì thế, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải hướng tới mục tiêu cải tạo nông nghiệp. Thực chất của công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp - nông thôn, giảm tỷ trọng kinh tế nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Ở Việt Nam hiện nay, nông dân vẫn chiến tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu dân số. Vì lẽ đó, văn kiện của các Đại hội VIII, IX, X, XI, XII đều nhấn mạnh nhiệm vụ phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn. Một loạt vấn đề mang tính “sống còn”của nông thôn và nông dân Việt Nam (như ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng ngày càng cao, đẩy mạnh công nghiệp chế biến, gắn sản phẩm nông nghiệp với thị trường trong nước và quốc tế, đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng nông thôn mới, khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác, chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân ở các nơi đang tiến hành đô thị hóa, thu hút các nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp) đều được Đảng đặt ra và từng bước giải quyết. Đây chính là sự thực hiện quan điểm của Lênin về nhiệm vụ chính trị của công nghiệp hóa ở một nước nông nghiệp. Thứ sáu, phải gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc bảo vệ tài nguyên, môi trường. Mặc dù Đại hội XI (năm 2011) mới chính thức tuyên bố công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải “gắn với việc bảo vệ tài Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 18 nguyên, môi trường” [5, tr.75], nhưng tinh thần thì đã có từ trước đó. Đại hội Đảng IX đã nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, thực hiện nghiêm Luật Bảo vệ môi trường. Sau đó 5 năm, Đại hội Đảng X đề ra nhiệm vụ: “tích cực phục hồi môi trường và hệ sinh thái bị phá hủy, hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên” [4, tr.94]. Cách đây hàng thế kỷ, Ăngghen đã cảnh báo về việc thiên nhiên sẽ “trả thù” con người nếu con người “thống trị giới tự nhiên” một cách thô bạo như những kẻ cướp. Ngày nay, những thảm họa môi trường đã chứng minh tính đúng đắn trong cảnh báo sớm của ông. Minh triết dân gian Việt Nam đúc kết: “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Nếu không gắn công nghiệp hóa với việc bảo vệ môi trường sinh thái thì con người sẽ phải hứng chịu những cơn cuồng nộ của thiên nhiên, sẽ phải bỏ ra rất nhiều tài lực để khôi phục môi trường, và kết cục, sẽ lại rơi vào sự đói nghèo. Đại hội Đảng XII, sau khi phân tích thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chiến lược công nghiệp hóa trong 30 năm Đổi mới đã nhấn mạnh nhiệm vụ “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [6, tr.89], chuẩn bị sẵn sàng để bước vào chặng đường thứ 3 của sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta là chặng đường nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa [6, tr.89]. 5. Kết luận Công nghiệp hóa theo hướng hiện đại là mục tiêu mà bất kỳ nước nào trên thế giới hiện nay cũng đặt ra. Thời đại đã đặt ra những vấn đề mới, và đường lối công nghiệp hóa theo hướng hiện đại của Đảng trong thời kỳ Đổi mới đã phần nào đáp ứng các yêu cầu đó. Đến đây xuất hiện một câu hỏi. Vì sao Việt Nam có mức độ tăng trưởng kinh tế khá tốt, đường lối công nghiệp hóa của Đảng nhìn chung là đúng hướng, nhưng mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 vẫn không đạt được, thậm chí, mức độ không đạt khá cao (vì có đến 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí)? Thật đáng suy nghĩ về thực tế rằng, sự nghiệp CNH ở Việt Nam đã tiến hành được 58 năm (bắt đầu từ năm 1960), nhưng đến thời điểm này, nông nghiệp Việt Nam chủ yếu vẫn “lấy công làm lãi”, vẫn “được mùa mất giá”; công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công hoặc khai thác tài nguyên; dịch vụ vẫn thiếu chuyên nghiệp; các tỷ phú ở Việt Nam đều hoạt động trên lĩnh vực tài chính - bất động sản chứ không phải trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Vì sao có hiện tượng đó? Bên cạnh nguyên nhân khách quan (như xuất phát điểm thấp, nguồn vốn dành cho CNH, HĐH rất hạn chế), thì nguyên nhân chủ quan của hiện tượng đó vẫn đóng vai trò chủ đạo. Cụ thể, đó là: do Đảng chưa có một chiến lược công nghiệp hóa mang tính tổng thể, cứ vừa làm vừa bổ sung, điều chỉnh, tính thống nhất và tính đồng bộ không cao; do người Việt Nam chưa khắc phục được tư tưởng ỷ lại vào tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đai và lao động giá rẻ; do thể chế, cơ chế và năng lực quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế (thể hiện qua việc thiếu các giải pháp và chế tài để hiện thực hóa mục tiêu chiến lược, việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước hết sức lỏng lẻo, việc đầu tư còn dàn trải theo cơ chế xin - cho); do tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm, “sân trước, sân sau”, tư duy Trần Thị Minh Tuyết 19 nhiệm kỳ hết sức nặng nề; do nguồn nhân lực trong nước chưa đáp ứng yêu cầu của qúa trình công nghiệp hóa; và do nhiều nguyên nhân khác. Trước tình hình đó, Nghị quyết số 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị vừa được ban hành ngày 23/3/2018 đã đặt ra “cột mốc” là, đến năm 2030, Việt Nam phải cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để “không lỗi hẹn cùng lịch sử” thêm một lần nữa, Đảng và nhân dân cần phải phát huy hơn nữa tinh thần đổi mới, sáng tạo. Tài liệu tham khảo [1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng Toàn tập, t.53, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Hồ Chí Minh - biên niên tiểu sử, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [9] C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [10] V.I. Lênin (1979), Toàn tập, t.15, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [11] V.I. Lênin (1981), Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [12] V.I. Lênin (1977), Toàn tập, t.36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [13] V.I. Lênin (1977), Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [14] V.I. Lênin (1977), Toàn tập, t.42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [15] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, t.44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. [16] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, t.45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2019 20
File đính kèm:
- quan_diem_cua_chu_nghia_mac_lenin_ve_cong_nghiep_hoa_va_van.pdf