Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số ít người có

cuộc đời với tư tưởng và phương thức ứng xử với thời cuộc khá đặc biệt. Sống

trọn thế kỷ XVI với nhiều biến động về chính trị, chiến tranh liên miên, đạo đức

xã hội suy đồi, thời cuộc loạn ly, lòng người chao đảo, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã

chủ động lựa chọn cho mình một phương thức ứng xử phù hợp và thức thời - khi

thì nhập thế giúp nước cứu đời, khi thì lui về ở ẩn để giữ vững khí tiết thanh cao,

hưởng thú vui tự tại, bình yên. Qua Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (chủ yếu qua

Tổng tập thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải

Phòng (2014)) bài viết làm rõ tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm mà trong đó

phương thức ứng xử với thời cuộc là một nội dung quan trọng.

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 1

Trang 1

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 2

Trang 2

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 3

Trang 3

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 4

Trang 4

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 5

Trang 5

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 6

Trang 6

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 7

Trang 7

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 8

Trang 8

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 9

Trang 9

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang xuanhieu 3420
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm
Khiêm còn là 
thái độ thản nhiên trƣớc những sự 
sống chết, đƣợc mất, cùng thông. Là 
một triết nhân với triết lý nhân sinh 
nhàn nhã, ông thấy đƣợc quy luật 
biến chuyển xoay vần của cuộc đời để 
không bám víu vào cái không thể bám 
víu, không thể lấy cái tƣơng đối làm 
cái tuyệt đối và cũng để điềm tĩnh thản 
nhiên vƣợt lên trên mọi giới hạn danh 
lợi, sân si của cuộc sống nhân gian. 
Cũng vì vậy, đối với mọi sự hơn thua 
ở đời, ông cũng dửng dƣng coi 
thƣờng. “Chán việc hơn thua đầy 
trƣớc mắt. Làm tiên nhàn nhã ở trên 
đời” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử 
Hải Phòng, 2014: 125). 
Có thể nói, quan niệm vô sự của 
Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là một 
 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 
10 
phƣơng thức biểu hiện của sự nhàn 
nhã về mặt tinh thần - đó chính là biểu 
hiện của nhàn trong tâm - tâm nhàn. 
Tâm nhàn là tâm trống không, hoàn 
toàn thảnh thơi không bị ràng buộc 
hay bị chi phối bởi sự thế xung quanh. 
Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, tâm trống 
không thì mới thảnh thơi, vô sự, 
không còn tham dục, không vƣớng 
công danh, không chấp thị phi, không 
định kiến. “Tâm trống rỗng” đƣợc 
Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh giá rất cao, 
ông thƣờng nói: “Thói tục, tiết ngay, 
đâu dễ đổi, Trời già, tâm rỗng, tự 
nhiên hay” (Hội đồng Lịch sử Hải 
Phòng, 2014: 159). Lòng có vô sự thì 
tâm mới “lâng lâng”, “tự tại”, giống 
nhƣ mặt nƣớc lặng mới phản ánh rõ 
mặt trăng. Nắm đƣợc quy luật ấy nên 
Nguyễn Bỉnh Khiêm bao giờ cũng “vui 
nƣớc biếc với non này. Cây cỏ tiêu 
dao cảnh tháng ngày” “cơ quan liễu 
khƣớc đều vô sự, tân quán sài môn 
tận nhật khai” (trong lòng không có cơ 
mƣu thì tự nhiên vô sự, cửa sài ở 
quán tân cứ mở suốt ngày), “hƣ thất 
hồn vô bán điểm ai, sài môn tận nhật 
bạng giang khai” (nhà trống không 
chẳng nhuốm chút bụi trần, cửa sài 
bên sông mở suốt ngày). “Thản nhiên 
vô sự lòng không muốn, nhà không 
chẳng bợn chút trần ai” (Viện Văn 
học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 
2014: 659). Theo phép tắc của lý học 
Tống Nho, nếu giữ đƣợc cho lòng 
mình trống không thì sẽ có thể hiểu 
“cùng lý cùng tính”. Tiếp cận tƣ tƣởng 
này, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Một 
chiếc thuyền không lánh việc đời”. Rõ 
ràng, ông chủ trƣơng vô sự là để lòng 
thanh thản, trống trải. Khi ấy con 
ngƣời mới khách quan và sáng suốt, 
mới hiểu đƣợc lý của tự nhiên, của 
trời đất, thấu đạt lẽ đời, tránh đƣợc 
sai lầm, mê muội. Hình ảnh chiếc 
thuyền không mà Nguyễn Bỉnh Khiêm 
đề cập đến không chỉ đơn thuần mang 
nghĩa là nói đến cuộc sống nhàn tản 
phóng khoáng mà còn hàm ý một triết 
lý sâu xa. Đó là sự thoát khỏi vòng 
cƣơng tỏa của danh lợi, đem cái tâm 
thuần khiết mà đối xử với mọi ngƣời, 
mọi vật thì tâm đó sẽ càng bình thản: 
“Xét thấy trong cảnh nhàn không có gì 
là bận rộn, mặt trời đã lên cao mà vẫn 
ngon giấc bên song cửa phía đông”, 
“suy ngẫm đời nhàn vui rảnh việc, gần 
trƣa ngon giấc ở bên song”, “nhàn 
đến đóng cửa sài cả ngày” (Viện Văn 
học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 
2014: 1170). 
Với chủ trƣơng vô sự, Nguyễn Bỉnh 
Khiêm đã đứng bên ngoài các cuộc 
phân tranh, vƣợt lên trên sự tranh 
chấp xâu xé của các tập đoàn phong 
kiến thống trị. “Cứu đắm, phò nguy, 
thẹn bất tài,. Trên đời mọi việc đều 
quên hết, tân quán cửa sài mở suốt 
thôi” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử 
Hải Phòng, 2014: 1392). 
Chủ trƣơng vô sự, Nguyễn Bỉnh 
Khiêm đã chứng tỏ ông là ngƣời nắm 
vững thời thế, hành động theo thời thế. 
Nhiều lần ông đã đề cập đến việc ứng 
xử tùy thuộc thời thế, và đây có thể 
xem nhƣ là một điểm tựa, một cơ sở 
cho tƣ tƣởng nhàn của ông: “đêm 
trăng Giám Hồ tình thơ cao xa, Gió 
thu Bành Trạch hứng rƣợu càng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 
11 
nhiều” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch 
sử Hải Phòng, 2014: 1245). Bành 
Trạch tức Đào Uyên Minh (Đào Tiềm), 
từng làm quan lệnh Bành Trạch, do 
chán cảnh quan lại luồn cúi, nên cáo 
quan về ở ẩn, đƣợc ngƣời đƣơng thời 
gọi là Tĩnh Tiết tiên sinh để khen sự 
liêm khiết của ông. Lối sống ẩn dật 
của ông ảnh hƣởng đến nhiều nho sĩ 
Việt Nam, trong đó có Nguyễn Bỉnh 
Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã noi 
theo Đào Tiềm, vui với thiên nhiên, xa 
lánh chốn quan trƣờng, ông thƣờng 
gợi nhớ về những tấm gƣơng ẩn dật 
của các bậc tiền bối, nhƣ là một cách 
để tự răn mình. 
Tƣ tƣởng vô sự của Nguyễn Bỉnh 
Khiêm mang màu sắc Lão - Trang 
nhƣng vẫn đậm nét Nho giáo. Vô sự ở 
Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn 
tránh trách nhiệm, phủi bỏ nhiệm vụ 
của cá nhân với cộng đồng xã hội, 
không phải là thoát ly xã hội, mà nó là 
một triết lý sống, một phƣơng thức 
ứng xử không ham danh lợi, địa vị, vật 
chất tiền tài, coi thƣờng bon chen, bất 
mãn với thói đời đen bạc. Vô sự là 
sống lạc thiên, tri mệnh, vui thú, 
khoáng đạt nhƣng vẫn “ƣu thời mẫn 
thế”. Đây là nét đặc sắc trong phƣơng 
thức ứng xử giữa thời loạn ly của 
Nguyễn Bỉnh Khiêm. 
Ảnh hƣởng sâu sắc những triết lý của 
Nho gia cũng nhƣ phƣơng châm xử 
thế trƣớc thời cuộc của các bậc tiên 
nho, Nguyễn Bỉnh Khiêm có những 
quan niệm đặc sắc về thời cuộc. Theo 
ông muốn hành động cho hợp lý phải 
xem xét thời thế, phải tùy thời, bởi vì: 
“Có thuở đƣợc thời mèo đuổi chuột. 
Đến khi thất thế kiến tha bò”, “Gặp 
thời dại cũng hóa nên khôn” và “Tri cơ 
ứng biến thì đƣợc vẹn toàn” (Viện Văn 
học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 
2014: 298). Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta 
thấy hình ảnh của một kẻ sĩ đối với 
thời cuộc biết “tri cơ” và “kiến cơ”. 
Khổng Tử trƣớc đây đã dùng hình ảnh 
con chim biết lúc nào nên đậu, lúc nào 
nên bay để tƣợng trƣng cho phƣơng 
châm xử thế tùy thời của nhà nho. Xét 
thời thế để hành hay tàng, xuất hay 
xử là con đƣờng không xa lạ đối với 
những ngƣời theo Nho giáo. 
2.3. Nỗi niềm đau đáu về tình đời, 
vận nƣớc và khát vọng cứu vãn xã 
hội đƣơng thời 
Sống trong cảnh loạn ly, cảm thấy bản 
thân khó gánh đƣợc trọng trách “phù 
nghiêng đỡ lệch”, Nguyễn Bỉnh Khiêm 
đã chọn cách sống tự tại, vô sự, ẩn 
dật vui thú hƣởng nhàn, nhƣng sâu 
thẳm trong tận lòng ông luôn đau đáu 
một nỗi lo về vận nƣớc, tình dân. Việc 
lúc ra làm quan, lúc về ở ẩn gián đoạn 
của ông đã chứng minh điều này. Và 
chính đó cũng là nét độc đáo trong 
phƣơng thức ứng xử trƣớc thời cuộc 
của ông - phƣơng thức ứng xử không 
đua tranh danh lợi nhƣng tình dân, 
vận nƣớc vẫn đeo mang. Điều này thể 
hiện ở khát vọng về xã hội hòa bình, 
thịnh trị và mong muốn “an dân” của 
Nguyễn Bỉnh Khiêm. 
Là nhà thơ chỉ để ở việc hành đạo, 
giúp đời, lập chí “phù nguy chửng 
nịch”, mong đem tài năng ra nâng đỡ 
sơn hà, song, ƣớc nguyện bất thành, 
 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 
12 
Nguyễn Bỉnh Khiêm vui sống với thiên 
nhiên, ruộng vƣờn, nén giấu nỗi niềm 
ƣu quốc ái dân của mình vào trong, 
ông không lúc nào không đau đáu về 
một xã hội thịnh trị, thái hòa, dân 
chúng an lạc, yên vui. 
Lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ XV 
đến thế kỷ XVI là sự nối tiếp khốc liệt 
của sự tranh giành, phân tranh dữ dội 
giữa các tập đoàn phong kiến. Chiến 
tranh nối tiếp chiến tranh, 50 năm 
chiến tranh Nam - Bắc triều (1546 - 
1592), 50 năm chiến tranh Trịnh - 
Nguyễn (1627 - 1672), xã hội Việt Nam 
oằn mình trong nỗi đau nồi da xáo thịt. 
Đời sống nhân dân khốn khổ, điêu linh. 
Đó là thời kỳ “gian khổ đầy những 
chiến tranh và vật lộn giữa các họ 
cầm quyền, giai đoạn phong kiến rối 
loạn mà các nhà Khổng học không 
ngừng nhắc đến một cách ngậm ngùi, 
chua cay” (Lƣơng Ninh, 2005: 100). 
Thực tế đó làm cho Nguyễn Bỉnh 
Khiêm càng khao khát về một xã hội 
hòa bình, thịnh trị. Một xã hội mà bên 
trên vua sáng tôi hiền, bên dƣới dân 
chúng sống hòa bình, no ấm, không 
còn cảnh chồng vợ phân ly, cha con 
chia lìa. Suốt đời Nguyễn Bỉnh Khiêm 
ôm ấp một nguyện vọng về một xã hội 
nhƣ thời Nghiêu Thuấn. Rất nhiều lần 
ông bày tỏ mong ƣớc này: “Hà thời 
thái tổ Đƣờng Ngu trị. Y cựu hiền 
khôn nhất thái hòa - Bao giờ lại đƣợc 
trông thấy thời bình trị Đƣờng Ngu để 
cho trời đất lại đƣợc thái bình nhƣ 
xƣa” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử 
Hải Phòng, 2014: 191). Xã hội mà 
Nguyễn Bỉnh Khiêm khao khát là xã 
hội với những giá trị, chuẩn mực đạo 
đức đƣợc giữ gìn, bảo tồn, con ngƣời 
đối xử với nhau chân thành hòa nhã; 
sung túc về kinh tế, ngƣời dân đều 
đƣợc lao động, có cuộc sống no cơm 
ấm áo. Mọi ngƣời dân biết phân biệt 
điều xấu điều tốt, biết phân biệt việc 
phải việc trái, có cuộc sống lƣơng 
thiện, giữ gìn những giá trị đạo đức 
cao đẹp, không bị lợi ích làm mù 
quáng, không bị kim tiền che mắt, trút 
bỏ mọi tham lam tính toán cho riêng 
mình. Xã hội mà Nguyễn Bỉnh Khiêm 
hƣớng đến là xã hội ổn định về mọi 
mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà 
đặc biệt nhất là xã hội ổn về lòng dân, 
khi đó dân tin, dân quý nhà cầm 
quyền nhƣ cha con, anh em, bè bạn. 
Để có một xã hội thái bình thịnh trị, 
cứu vãn trật tự xã hội, Nguyễn Bỉnh 
Khiêm chủ trƣơng thực hiện đƣờng lối 
cai trị bằng nhân nghĩa, dùng nhân 
nghĩa để giáo huấn, giáo hóa con 
ngƣời và duy trì trật tự ổn định của xã 
hội. Ngƣời thực hiện tốt nhiệm vụ này 
không ai khác hơn là vua. Do vậy, 
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú ý đến vai 
trò và phẩm chất của vị vua trong xã 
hội. Vua phải dùng nhân nghĩa để 
giáo hóa dân chứ không phải dùng 
quyền uy và mệnh lệnh bạo tàn. Ông 
viết: “Thánh chủ chỉ kim nhân thắng 
bạo - Thánh chúa ngày nay chỉ lấy 
nhân nghĩa để thắng bạo tàn” (Hội 
đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 254). 
Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua phải là 
ngƣời công bằng, ngƣời cầm cán cân 
công lý, biết yêu nƣớc và hết lòng vì 
dân, vua phải là ngƣời nếu có bó đuốc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 
13 
sáng thì nên soi dân nơi nhà nát xóm 
nghèo: “Quân vƣơng nhƣ hữu quang 
minh chúc. Ƣng chiếu cùng lƣ bộ ốc 
dân” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 
2015: 153), để “dân lầm than khổ cực 
đều đƣợc nằm trên nệm chiếu yên ổn” 
(Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 
242). Vua nhƣ vậy, và quan lại cũng 
phải nhƣ vậy, theo Nguyễn Bỉnh 
Khiêm, bầy tôi khi giúp vua cũng phải 
“nhân nghĩa tựa nhƣ son”. Có đƣợc 
vua sáng tôi hiền nhƣ vậy thì mô hình 
về một xã hội thái bình sẽ trở thành 
hiện thực. 
Đau đáu nỗi niềm thƣơng nƣớc, 
thƣơng dân Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn 
xem trọng sức mạnh của dân chúng 
và sẵn sàng “nhập thế” để ngƣời dân 
có đƣợc cuộc sống yên vui hạnh phúc. 
Ông luôn mong muốn đem lại cho dân 
chúng cuộc sống bình yên, no ấm, 
đƣợc phát triển tự do, tự chủ đối với 
cuộc đời của mình. Trong thế kỷ mà 
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh sống, xã hội 
oằn mình trong máu lửa chiến tranh. 
Con ngƣời nơm nớp lo sợ, tính mạng 
luôn bị đe dọa. Thực tại nhƣ vậy, nên 
muốn dân đƣợc yên ổn, theo Nguyễn 
Bỉnh Khiêm, cách thiết thực nhất là 
phải xóa bỏ chiến tranh, chấm dứt, 
loại trừ những hành động tàn ác bạo 
ngƣợc đối với dân. Nguyễn Bỉnh 
Khiêm cũng phân biệt rất rõ chiến 
tranh phi nghĩa và chiến tranh chính 
nghĩa. Ông đề cao và tham gia vào 
các cuộc chinh phạt nhằm chống lại 
bọn giặc cƣớp tàn hại nhân dân. 
Nhƣng đối với các cuộc chiến tranh 
khác, những cuộc chiến tranh vì lợi 
ích của cá nhân và dòng họ thì ông lại 
kịch liệt lên án. 
Có thể nói, cả cuộc đời lo toan vì nợ 
nƣớc, vì tình dân, nhƣng Nguyễn Bỉnh 
Khiêm sống đầy lạc quan, hào phóng, 
mong muốn “gắng sức ngày đêm” làm 
việc để đất nƣớc thanh bình, nhân 
dân yên ổn. Chí nguyện cao đẹp cả 
đời ông là nét son sáng chói ghi nhận 
tên tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm trong 
dòng chảy mênh mông của dòng sông 
tƣ tƣởng dân tộc. 
3. KẾT LUẬN 
Dù đau đáu lo đời, lo nƣớc, lo dân 
nhƣng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm lại bộc 
lộ một phong thái sống ung dung, 
nhàn nhã. Sự hòa hợp tƣởng chừng 
nhƣ mâu thuẫn này đặc biệt chỉ có ở 
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và đó cũng 
chính là cách ứng xử đặc biệt, làm 
nên dấu ấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm 
so với các nhà tƣ tƣởng đƣơng thời. 
Trong thời buổi loạn lạc, Nguyễn Bỉnh 
Khiêm chủ động chọn phƣơng thức 
ứng xử là vận dụng hợp lý hai chữ 
xuất-xử vào hoàn cảnh lịch sử đầy 
biến động mà ông là ngƣời trong cuộc. 
Chọn cách sống tự tại và vô sự, ông 
đã xác lập một nhân sinh quan xử thế 
hợp lý. Đó là thái độ sống ung dung tự 
tại, tìm đến với thiên nhiên, tìm đến sự 
an bình trong tâm. Đó chính là đi tìm 
cái tĩnh trong cái động, thấy đƣợc sự 
đứng im tƣơng đối trong sự vận động 
tuyệt đối. Song, đằng sau sự vô sự, 
dửng dƣng là cả một nỗi lo toan, day 
dứt với đời, với thời, với ngƣời, là 
khát vọng về một xã hội hòa bình 
thịnh trị. Đúng nhƣ lời nhận xét của 
 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 
14 
Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm là 
con ngƣời “đời dùng thì làm, đời bỏ 
thì ẩn, đối với tiên sinh dù chẳng đắc 
dụng cũng có hề chi” (Hội đồng Lịch 
sử Hải Phòng, 2015: 412). Và cũng vì 
vậy mà “tuy ở nhà bốn mƣơi tƣ năm 
mà lòng không ngày nào quên đời, ƣu 
thời mến tục đều lộ trong thơ. Con 
ngƣời nhàn dật, tự tại trong Tuyết 
Giang phu tử vì thế vẫn chƣa thoát 
khỏi học thuyết Nho giáo, vẫn chƣa ra 
ngoài quan niệm “hành-tàng”, “xuất-
xử”, “nguy bang bất nhập, loạn bang 
bất cƣ” để hòa mình vào thế giới của 
Lão Trang” (Hội đồng Lịch sử Hải 
Phòng, 2015: 312). Ra rồi về, về rồi 
ra, quá trình hành tàng, xuất xử ấy 
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hẳn có nhiều 
lý do, nhƣng dù sao đi nữa thì “cái 
đáng trân trọng và đánh giá cao nhất 
ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là dù xuất hay 
xử, tấm lòng của ông luôn luôn hƣớng 
về đất nƣớc, về nhân dân. Tƣ tƣởng 
và tình cảm cao đẹp đó không đƣa 
ông vƣợt qua những hạn chế của thời 
đại nhƣng là nền tảng tinh thần, là 
chất liệu cơ bản để cùng với tri thức 
uyên bác và tài năng sáng tạo của 
mình, nâng ông lên địa vị một danh 
nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc, một 
nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XVI với uy 
tín và ảnh hƣởng rộng lớn bao trùm 
đất nƣớc lúc đó” (Hội đồng Lịch sử 
Hải Phòng, 2015: 112). Đó cũng là 
một trong những bằng chứng chứng 
tỏ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là sản phẩm 
văn hóa điển hình của thế kỷ XVI - 
một thế kỷ nặng về chinh chiến và 
nhiều biến động nên phải lựa chọn 
một phƣơng thức ứng xử văn hóa khả 
dĩ có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu đời 
sống tinh thần vốn muôn phần phức 
tạp” (Nguyễn Hữu Sơn, 2003: 28).  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng. 1997. Việt Nam văn học (thế kỷ 
XVII - nửa đầu thế kỷ XVIII). Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
2. Viện Văn học, Hội đồng Lịch sử Hải Phòng. 2014. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, 
tổng tập. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
3. Hội đồng Lịch sử Hải Phòng. 2015. Hội thảo “Di sản văn học – Nguyễn Bỉnh Khiêm - 
tư tưởng và khuynh hướng thẩm mỹ”. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
4. Lƣơng Ninh (chủ biên). 2005. Lịch sử Việt Nam giản yếu. Hà Nội: Nxb. Chính trị 
Quốc gia. 
5. Nguyễn Hữu Sơn. 2003. Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý thế sự. TPHCM: Nxb. 
Trẻ. 
6. Nguyễn Nghiệp. 1997. Trạng Trình và Sấm ký. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 
7. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn. 2000. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 
1984. TPHCM: Nxb. TPHCM. 
8. Vũ Minh Tâm. 1996. Tư tưởng triết học về con người. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 

File đính kèm:

  • pdfphuong_thuc_ung_xu_voi_thoi_cuoc_trong_tu_tuong_triet_hoc_ng.pdf