Phương pháp và tiếp cận kinh tế của John M.Keynes từ góc nhìn duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin
John M. Keynes là một trong những nhân vật vĩ đại nhất của kinh tế học thế kỷ XX. Tuy nhiên,
kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2009, những tư tưởng nguyên bản của Keynes mới
có điều kiện trỗi dậy, và giới nghiên cứu lịch sử kinh tế mới có điều kiện thoát ra khỏi phương pháp
tái hiện duy lý để xem xét và đánh giá thực sự các tư tưởng của Keynes. Sử dụng phương pháp tái
hiện lịch sử, bài viết này tập trung xem xét, đánh giá về phương pháp và cách tiếp cận kinh tế của
Keynes từ quan điểm duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Bài viết chỉ ra rằng bất kể sở
hữu một trí tuệ vượt trội và điều kiện giáo dục tinh hoa của mình, các phương pháp và tiếp cận của
Keynes nhìn chung vẫn mang các đặc điểm cơ bản của giai cấp tư sản đầu thế kỷ XX với sự đan xen
giữa biện chứng và siêu hình, mang màu sắc duy tâm và bị ảnh hưởng bởi thuyết Bất khả tri. Trong
tư tưởng cũng như hoạt động thực tiễn, Keynes vẫn dùng dằng giữa chủ nghĩa chiết trung và tính
cách mạng nửa vời.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp và tiếp cận kinh tế của John M.Keynes từ góc nhìn duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin
ác tư tưởng của các nhà kinh tế học và triết học chính trị, cả khi đúng cũng như khi sai, đều có ảnh hưởng to lớn hơn mức người ta thường nghĩ. Thật ra, thế giới bị cai trị chỉ bởi một số người. Những nhà hoạt động thực tiễn, vốn tự xem mình hoàn toàn miễn nhiễm khỏi các ảnh hưởng tư tưởng, thường là nô lệ của một vài nhà kinh tế quá cố nào đóTôi tin chắc rằng lợi ích được thụ hưởng sẽ khuyếch trương nhanh hơn rất nhiều so với sự tích lũy từ từ của tư tưởng, nhưng chính bản thân tư tưởng mới là thứ nguy hiểm cho cái thiện hay cái ác” (Keynes, 1936). Tuy nhiên, Keynes đã đi quá xa khỏi tính năng động của ý thức bằng việc tuyệt đối hóa vai trò của tư tưởng, một mặt tách tư tưởng ra khỏi điều kiện hiện tồn của nó, mặt khác xem nó có tính chất quyết định đối với các hoạt động thực tiễn. Điều này đã biến phương pháp luận của Keynes thành phương pháp tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm. Không có gì ngạc nhiên khi Keynes đã dành hầu hết cuộc đời mình trước khi công bố Lý thuyết tổng quan để chỉ trích, phê bình và cả chửi mắng chính phủ Anh vì đã không làm theo những KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 28 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016) tư tưởng đúng đắn của mình. Không phải các nhà Mácxít, mà chính các nhà kinh tế học trường phái Lựa chọn công đứng đầu là James Buchanan (Nobel kinh tế 1986) mới là những người chỉ trích và chế giễu quan điểm này của Keynes. Họ chỉ ra và cảnh báo Keynes rằng những lợi ích vật chất từ tính đặc lợi, đặc quyền của giới quan chức và chính trị gia sẽ “nắm giữ một cách hiệu quả các ý tưởng và chính sách tốt để làm con tin” (Buchholz, 2007). Ở cách tiếp cận kinh tế của Keynes cũng có một số điểm đáng chú ý. Các nhà tân cổ điển trước Keynes đã rời trọng tâm của kinh tế học từ nghiên cứu sự gia tăng của cải sang nghiên cứu sự khan hiếm. Khi phân tích kinh tế như một chỉnh thể, họ tin tưởng và thậm chí còn công thức hóa định luật Say, rằng cung sẽ tạo ra cầu cho chính nó, mà sau này được trừu tượng hóa cao độ bằng sự cân bằng ở tất cả các thị trường trong mô hình cân bằng tổng quát của Leon Walras. Thị trường sẽ điều tiết để mọi hàng hóa sản xuất ra đều bán được hết, bởi vì sản lượng tăng thêm của doanh nghiệp sẽ chuyển hóa thành một danh nào đó của thu nhập: tiền lương của công nhân, lợi nhuận của nhà tư bản hay địa tô của chủ đất. Nhưng dù là ai thì đây đều là người tiêu dùng trên thị trường. Nếu người tiêu dùng không tiêu hết số tiền và để dưới dạng tiết kiệm thì thị trường vốn vay sẽ hoạt động: đầu tư sẽ phải cân bằng với tiết kiệm. Thất nghiệp hay khủng hoảng kinh tế chỉ là những điều chỉnh tạm thời của nền kinh tế trước khi quay về vị trí cân bằng. Keynes lập luận rằng chẳng có gì đảm bảo rằng tất cả hàng hóa sản xuất ra sẽ được mua hết, chẳng có gì đảm bảo tiết kiệm sẽ cân bằng với đầu tư. Chẳng hạn, tiết kiệm có thể là phần chừa ra một cách chủ động trước khi ra quyết định chi tiêu, chứ không phải là phần còn lại của chi tiêu, nên không có lực lượng nào khiến tiết kiệm và đầu tư phải cân bằng. Keynes đã phát hiện ra điều mà hơn 60 năm trước Các Mác đã chỉ ra rằng định luật Say không thể thỏa mãn nếu người công nhân không sử dụng hết tiền lương để mua hàng hóa và đồng thời nhà tư bản cũng dùng hết lợi nhuận để mua hàng hóa. Keynes cũng từ chối tư duy cân bằng mang tính cơ học của các nhà tân cổ điển như Marshall. Ông đã nhìn ra các vấn đề của dao động kinh tế với các cú sốc từ bên ngoài và ông không tin vào sự tự điều chỉnh nhanh chóng của nền kinh tế về vị trí “cân bằng” không có thực bởi vì kinh tế học, không giống với vật lý học, là khoa học đạo đức liên quan tới “các vấn đề nội tâm và giá trị liên quan tới động cơ, kỳ vọng và những ngẫu nhiên mang tính tâm lý”. Chính vì thế, với Keynes, con người không phải là các đối tượng khách quan bị động khác nên các phản ứng của con người mang tính bất trắc không lường trước được, hoàn toàn khác với các dao động của con lắc trước một lực tác động. Hành vi con người phụ thuộc vào kỳ vọng, nhưng từ kỳ vọng đến hiểu đúng là một chặng đường rất xa, và ở giữa hai thứ đó còn là niềm tin của con người vào kỳ vọng mình đang nắm giữ. Kỳ vọng và niềm tin vào kỳ vọng của con người mang tính quyết định tới các quyết định duy lý mang tính bất trắc của hành vi con người. Để hiểu tính bất trắc của hành vi con người, Keynes sử dụng xác suất. Thật ra, Keynes đã dành toàn bộ thời gian học đại học ở Cambridge để viết luận văn về xác suất, và sau đó năm 1921 xuất bản thành sách “Khảo luận về xác suất”. Keynes chỉ ra sự khác nhau giữa xác suất định lượng, xác suất thứ bậc và xác suất không thể biết, hay bất trắc. Keynes phân biệt bất trắc với rủi ro ở chỗ rủi ro thì có thể đo lường bằng xác suất, nhưng bất trắc thì không. Có những thứ là bất trắc mang tính KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 29Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016) nhận thức luận, vì chúng ta không có đủ thông tin để xử lý. Ví dụ, dưới chế độ điểm của ai người ấy biết thì khi một sinh viên nhận được điểm của mình, việc cậu có đứng đầu lớp hay không là một điều không chắc chắn mang tính nhận thức luận: cậu ta không có đủ thông tin để kết luận, không có thông tin để áp bất cứ một thứ bậc hay con số nào cho khả năng cậu ta sẽ đứng đầu. Tuy nhiên về mặt bản thể luận, vấn đề có thể giải quyết nếu cậu ta có đầy đủ thông tin, chẳng hạn bằng việc đi hỏi điểm tất cả mọi người trong lớp, hoặc nếu nhà trường thay đổi chính sách bằng cách thông báo bảng điểm của cả lớp. Nhưng có bất trắc mang tính bản thể luận chứ không chỉ nhận thức luận, đơn giản là vì chúng ta không thể nói được gì hơn, không thể biết dù có bao nhiêu thông tin đi nữa. Những nhà kinh tế được đào tạo tại các trường kinh tế tốt nhất thế giới vào những năm 1980 sẽ không bao giờ dự đoán được rằng đến năm 2010 lãi suất ở Hoa Kỳ sẽ về đến 0. Bởi vì không ai dự đoán được cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009 sẽ xảy ra. Và cũng không ai biết Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ sẽ phản ứng như thế nào bằng chính sách tiền tệ3. Keynes đã nói chắc nịch rằng “đơn giản là chúng ta không biết”, và gọi đó là bất trắc tối giản. Những ý tưởng này mang màu sắc của thuyết bất khả tri. Chúng tôi cho rằng điều này cũng không mấy ngạc nhiên, vì có lẽ Keynes bị ảnh hưởng bởi Geogre Moore trong nhóm tinh hoa Bloomsbury ở Cambridge. Chính vì những bất trắc tối giản mà ngay cả những con người duy lý trong tình trạng thông tin đầy đủ nhất hiện có cũng tin tưởng và hành xử sai lầm bởi vì một niềm tin duy lý không nhất thiết phải là một niềm tin đúng. Nếu sau này có những bằng chứng cho thấy niềm tin trước đây của người đó sai không có nghĩa là niềm tin trước đó của anh ta là không hợp lý. Ở khía cạnh này Keynes cũng đã bước một bước rất xa khỏi truyền thống tân cổ điển. Thị trường chệch ra khỏi cân bằng không chỉ vì nó phụ thuộc vào bản chất mang tính xúc cảm của con người, mà còn vì tương lai là bất trắc. Nếu thị trường dao động chỉ vì sự phi lý do xúc cảm con người thì khi mỗi cá nhân có đầy đủ thông tin thì thị trường có thể ổn định ở mức cân bằng. Nhưng nếu thị trường dao động do tương lai là bất trắc thì những bất ổn thị trường ấy nằm ngoài giới hạn của hiểu biết con người, và thị trường không thể cân bằng. Nói cách khác, bản chất của thị trường là không cân bằng và tình huống cân bằng trên thị trường là một tình huống hoàn toàn ngẫu nhiên. Keynes đã chạm đến rất gần cái lớp vỏ cuối cùng của chủ nghĩa tư bản khi ông nhận thấy khiếm khuyết mang tính bản chất của chủ nghĩa tư bản, vốn là thứ không thể điều hòa. Nhưng thay vì cùng Mác “tìm đến giai cấp công nhân như một lực lượng vật chất” để giải quyết mâu thuẫn nội tại trong lòng chủ nghĩa tư bản một cách triệt để thì Keynes lại phân vân, do dự rồi cuối cùng tìm cách cứu chữa cho những cơn đau của chủ nghĩa tư bản bằng các can thiệp của chính phủ vào thị trường. Chính từ quan điểm về bất trắc tối giản mà Keynes rất dè dặt trong các kỹ thuật kinh tế lượng như phân tích hồi quy. Với việc thiết lập các tham số, thêm bớt các biến độc lập và lựa chọn các độ trễ thời gian một cách có chủ đích, rồi đặt chúng trong những quan hệ 3 Hãy nhớ rằng các nhà kinh tế Hoa Kỳ thường xuyên chỉ trích chính sách lãi suất bằng 0 của Ngân hàng trung ương Nhật Bản nhằm đương đầu với suy thoái kinh tế từ những năm 1990 đến nay, trước khi bản thân nền kinh tế Hoa Kỳ phải đối mặt với Đại suy thoái KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 30 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 82 (5/2016) giả tưởng vốn rất có thể là không đồng nhất theo thời gian đều là các thao tác sai về tư duy. Ngoài ra, rất nhiều các ảnh hưởng quan trọng không thể đo lường trên phương diện thống kê. Keynes viết “những quyết định mang tính cá nhân, chính trị hay kinh tế, đều không phụ thuộc vào những kỳ vọng toán học chính xác, bởi vì cơ sở để đưa ra những tính toán như vậy không hề tồn tại” (Keynes, 1921). Skidelsky - người viết tiểu sử của Keynes - đã diễn giải rất hay về ý này, rằng với Keynes “tương lai không phải thứ đang đứng ngoài kia đợi chúng ta thấu hiểu, mà chúng ta tạo ra tương lai” (Skidelsky, 2009) và vì thế Skidelsky xem bất trắc tối giản là chìa khóa để hiểu đúng kinh tế học của Keynes. Khác các nhà lý luận Mácxít, Keynes không tin vào khả năng nhận thức được các bước tiến lịch sử của con người, không tin vào các quy luật xã hội khách quan tác động tới sự phát triển của lịch sử loài người. Keynes cũng không nhận thức được cái vòng xoáy trôn ốc mà tại đó sự đấu tranh giữa các mặt đối lập sẽ thúc đẩy các khía cạnh của lịch sử nhân loại lên trình độ phát triển cao hơn, mà bản thân sự tỏa sáng, lu mờ và hồi sinh của tư tưởng Keynes cũng không nằm ngoài quy luật đó. Và tất nhiên, nếu con người không thể nhận thức được lịch sử thì con người không có phương cách nào hay cơ sở nào để tiến hành các cuộc cách mạng xã hội. Cách mạng, với Keynes, chỉ là một sự cố lịch sử chứ không phải là một tất yếu lịch sử. Ông viết rằng khi cuộc cách mạng giai cấp nổ ra, người ta sẽ thấy ông đứng về phe các nhà tư sản, bất kể những khuyến nghị kinh tế mà ông theo đuổi luôn được xem là có màu sắc xã hội chủ nghĩa vào thời ông sống. Nhưng do bản chất hay thay đổi và tính chiết trung trong các ý tưởng của Keynes, chúng ta có thể hồ nghi vào một phe thực sự mà Keynes sẽ chọn khi cách mạng nổ ra. Với chúng ta, và có thể cả với Keynes, lựa chọn này cũng là một bất trắc tối giản. 5. Kết luận Các tư tưởng kinh tế của Keynes có ảnh hưởng rộng khắp trên toàn thế giới, nhất là ở các nước tư bản phát triển. Keynes đã sống vào thời kỳ chứng kiến những va vấp của chủ nghĩa tư bản và cung cấp cho nó một phương thuốc ngoài da hiệu quả. Nhưng phương pháp và cách tiếp cận của Keynes về cơ bản vẫn không thoát ra khỏi hệ tư tưởng của các trí thức tư sản đầu thế kỷ XX với tiếp cận đan xen giữa biện chứng và siêu hình, mang màu sắc duy tâm và bị ảnh hưởng bởi thuyết Bất khả tri. Trong tư tưởng cũng như thực tiễn, Keynes vẫn dùng dằng giữa chủ nghĩa chiết trung và tính cách mạng nửa vời, không nhận thức được các quy luật khách quan của xã hội, không nhìn ra được những mâu thuẫn nội tại trong lòng chủ nghĩa tư bản hoặc ông nhìn ra nhưng cố tình phủ nhận chúng. Vì thế, ông đã không triệt để giải quyết những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngay từ phương pháp và cách tiếp cận của mình. Muốn xem xét và cải tạo thế giới từ trạng thái hiện tồn của nó, nhưng Keynes không đi sâu vào bản chất mà bị cuốn hút bởi cái hiện tượng bên ngoài của các hiện tượng kinh tế. Điều này trở thành hạn chế trong phương pháp và cách tiếp cận của ông, khiến những tư tưởng của ông về bản chất không vượt ra khỏi cái khung tân cổ điển mang màu sắc kỹ trị mà ông thừa kế từ thế hệ trước mình. Tư tưởng của Keynes sẽ còn ngự trị trong kinh tế học lâu dài dưới nhiều hình thức khác nhau. Các nhà lý luận Mácxít phải không ngừng cập nhật, chắt lọc những hạt nhân hợp lý trong các tư tưởng của Keynes, xem nó như tinh hoa trí tuệ nhân loại để soi rọi, đối chiếu và bổ sung cho các quan điểm Mácxít trong điều kiện và hoàn cảnh kinh tế KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP 31Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 82 (5/2016) - xã hội mới. Bên cạnh đó, các nhà lý luận Mácxít cũng phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm siêu hình, duy tâm và xa lạ mà hoàn cảnh xã hội và vị trí giai cấp đã ảnh hưởng tới Keynes. Marshall đã từng viết đề từ cho cuốn Nguyên lý kinh tế học của mình bằng trích dẫn “tự nhiên không làm nên những bước nhảy vọt bất ngờ”. Các giải pháp Keynes có thể tạm thời điều hòa các mâu thuận nội tại trong lòng chủ nghĩa tư bản nhưng từ bản chất các giải pháp này sẽ không thể làm thay đổi sự vận động từ từ nhưng tất yếu của nhân loại từ phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản sang một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn với một quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.q Tài liệu tham khảo 1. Blanchard, Olivier, Giovanni Dell Ariccia và Paolo Mauro, 2010, Rethinking Macroeconomic Policy, IMF Staff Position Note, Bản điện tử tại: external/pubs/ft/spn/2010/spn1003.pdf 2. Buchholz, Todd, 2007, Ý tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối. 3. Keynes, J. M., 1913, Indian Currency and Finance. In lại trong Keynes, Collected Writings. Vol. 1. 4. Keynes, J. M., 1919, The Economic Consequences of the Peace. In lại trong 5. Keynes, Collected Writings. Vol. 2. 6. Keynes, J. M., 1920, The Economic Consequences of the Peace. New York: Harcourt, Brace, and Howe. Bản điện tử tại: kynsCP.html. 7. Keynes, J. M., 1923, A Tract on Monetary Reform. In lại trong Keynes, Collected Writings. Vol. 4. 8. Keynes, J. M., 1930, A Treatise on Money, Vol. 1: The Pure Theory of Money. In lại trong Keynes, Collected Writings. Vol. 5. 9. Keynes, J. M., 1930, A Treatise on Money, Vol. 2: The Applied Theory of Money, Reprinted in Keynes, Collected Writings, Vol. 6. 10. Keynes, J. M., 1936, The General Theory of Employment, Interest and Money, In lại trong Keynes, Collected Writings, Vol. 7. 11. V.I.Lênin, 1920, Báo cáo tại Đại hội lần thứ 2 của Quốc tế cộng sản, Bản điện tử: https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/jul/x03.htm 12. Các Mác và Ph.Ăng-ghen, 1995, Toàn tập. Tập 3. (1845-1847). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Phạm Văn Chiến, 2008, “Trường phái chính hiện đại” có tồn tại hay không?, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 49-54 14. Royal Economic Society, 2009, Krugman on Keynes, Bản điện tử tại: org.uk/view/art2Jan09Features.html 15. Skidelsky, Robert , 2009, The Return of the Master, Allen Lane. 16. Skidelsky, Robert , 2011, The Relevance of Keynes, Cambridge Journal of Economics, Vol. 35:1, pp 1-13
File đính kèm:
- phuong_phap_va_tiep_can_kinh_te_cua_john_m_keynes_tu_goc_nhi.pdf