Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

Sau khi làm rõ các thuật ngữ: Năng lực, cán bộ quản lý giáo dục, năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục và điều kiện bảo đảm có một quyết định quản lý đúng, người

viết muốn đề xuất các điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý

giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra quan điểm khi áp dụng với cán bộ

quản lý ở các cơ sở giáo dục dành cho người dân tộc thiểu số.

Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 trang 1

Trang 1

Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 trang 2

Trang 2

Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 trang 3

Trang 3

Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 trang 4

Trang 4

Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 9900
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường Phổ thông dân tộc nội trú và Phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
o, quan hệ mật thiết với 
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng sự truyền 
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các 
thế hệ loài người, với ý nghĩa giúp các thế hệ nối 
tiếp nhau kế thừa, bổ sung và phát triển các tinh 
hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, nhằm cải thiện tốt 
hơn đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con 
người và tự nhiên.
Quá trình lập kế hoạch: Là quá trình từ các 
thông tin, ta dự đoán tình hình rồi xác định các 
nhiệm vụ cụ thể và các mục tiêu tương ứng, cuối 
cùng là hoạch định kế hoạch hành động nhằm thực 
hiện mục tiêu chung đã thống nhất. Với vai trò: Là 
điểm xuất phát là sự định hướng và là căn cứ cho 
các hoạt động thuộc các chức năng quản lý khác. 
Nội dung cụ thể là:
i. Phân tích bối cảnh để xác định các nhiệm vụ 
cụ thể và các mục tiêu tương ứng (Dùng SWOT).
ii. Xây dựng cấu trúc bản kế hoạch (Dùng ma 
trận cấp 2).
iii. Viết nội dung bản kế hoạch (Dùng từ cốt lõi 
để ghi vào các ô của ma trận).
iv. Kiểm tra lại nội dung bản kế hoạch trước khi 
ban hành chính thức.
Quá trình tổ chức: Là quá trình tiếp nhận và 
hiện thực hóa các mục tiêu cụ thể từ bản kế hoạch 
đã được ban hành gồm: Thiết lập hệ thống tổ chức 
trong đơn vị mình; tập hợp các nguồn lực và tạo ra 
sức mạnh mới của tổ chức. Với vai trò: Là chỗ dựa 
để các chức năng khác phát huy tác dụng. Nội dung 
cụ thể là:
i. Từ nội dung bản kế hoạch, lập cơ cấu tổ chức 
phù hợp với thực tế trong từng nhiệm vụ cụ thể 
(Dựa vào trải nghiệm của bản thân hay kinh nghiệm 
ở nơi khác).
ii. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ tương ứng với 
cơ cấu tổ chức đã thiết lập.
iii. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các bộ 
phận (Biểu thị nó qua sơ đồ Găng).
iv. Kiểm tra lại ba bước trên trước khi ban hành 
chính thức.
Quá trình chỉ đạo: Là quá trình tác động làm ảnh 
hưởng tới hành vi và thái độ của những người khác 
nhằm thực hiện hóa các mục tiêu cụ thể; Giúp tạo ra 
động lực lao động tích cực của các thành viên trong 
đơn vị; Bảo đảm cho hoạt động của đơn vị trước 
sau như một, vận hành trên một quĩ đạo định trước 
nhằm đạt mục tiêu như đã dự kiến. Với vai trò: Là 
sự “khởi động” và bảo đảm cho các bộ phận trong 
đơn vị “vận hành” tốt; Bảo đảm các bộ phận có thể 
thiết lập được một mối liên hệ hợp lý nhằm phục vụ 
một yêu cầu thống nhất chung; Nhằm phòng ngừa 
và ngăn chặn các sai phạm có thể xảy ra. Nội dung 
cụ thể là:
i. Giao việc, hướng dẫn và bảo đảm các điều 
kiện để vận hành.
ii. Bảo đảm thông suốt cho các mối liên hệ giữa 
các bộ phận.
iii. Xây dựng cơ chế động viên, khuyến khích 
nhằm tạo động lực.
iv. Giám sát, đôn đốc (Phải thường xuyên trừ 
một số ít nhiệm vụ hoặc người thực hiện nhiệm vụ 
đặc biệt).
v. Điều chỉnh nguồn lực và thời gian hoàn thành 
từng nhiệm vụ cụ thể nhằm đạt thời gian chung 
(Phải chú ý tới các hoạt động tuyển dụng/mua sắm/
huy động; Sử dụng; Bồi dưỡng/bổ sung; Đánh giá). 
Quá trinh kiểm tra: Là quá trình đánh giá và rút 
ra bài học cho một chu kỳ quản lý khác. Với vai trò: 
Bảo đảm có minh chứng chính xác cho quá trình 
đánh giá. Nội dung cụ thể là:
i. Điều chỉnh tiêu chuẩn (mục tiêu) nếu thấy cần.
ii. Kiểm tra thực trạng.
iii. So sánh với chuẩn đã thống nhất.
iv. Xử lý (Khen, chê, điều chỉnh lại kế hoạch). 
Quyết định quản lý: Quyết định quản lý của chủ 
thể quản lý (CBLĐ trước một nhiệm vụ cụ thể hay 
trước một đơn vị cụ thể) chính là hành vi của chủ 
thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung, từ đơn giản 
đến phức tạp, bao gồm: Ở mức độ thấp, gồm các 
hành động tương tác có ý thức như: ánh mắt, lời 
nói, ngôn ngữ cơ thể hoặc phối hợp cả ba hành động 
trong cùng một lúc của chủ thể quản lý. Ở mức độ 
cao: gồm các hành động tạo nên sự nêu gương của 
chủ thể quản lý hoặc các văn bản do chủ thể quản 
lý ban hành.
Có thể khái quát ý tưởng về mức độ hành vi của 
chủ thể quản lý bằng hình 1.1 sau
Hình 1.1: Mức độ hành vi của chủ thể quản lý
Tác động có hướng đích: Là sự điều chỉnh mối 
quan hệ giữa con người và con người trong hoạt 
động tập thể hướng tới mục tiêu chung của tập thể 
(Mục tiêu chung của tập thể là những kỳ vọng được 
thống nhất của tập thể đó trong một giai đoạn xác 
định nào đó). 
Mức độ cao
Mức độ thấp
Hành động tạo nên sự nêu gương 
của chủ thể quản lý hoặc các văn 
bản do chủ thể quản lý ban hành
Ánh mắt, lời nói, ngôn ngữ cơ 
thể của chủ thể quản lý
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
60 Số 21 - Tháng 3 năm 2018
5. Điều kiện để bảo đảm có quyết định quản 
lý đúng
Để có quyết định quản lý đúng, chủ thể quản lý 
phải thường xuyên rèn luyện các thao tác tư duy khi 
thực hiện chức năng quản lý của mình.
Thao tác tư duy của chủ thể quản lý khi thực hiện 
chức năng quản lý của mình được hiểu là: Chủ thể 
quản lý phải cân nhắc bốn điều kiện, đó là, Thông 
tin có xác thực không? Trong những điều kiện cụ 
thể nào? Phương pháp nào sẽ được áp dụng? Hành 
động sẽ thực hiện có vi phạm nguyên tắc không? 
(có thể nói vắn tắt, 4 điều kiện là: “Thông, Điều, 
Phương, Nguyên“).
Trong đó
o Thông tin xác thực: Được hiểu là những thông 
tin đã được chứng minh thông qua những kết quả, 
những hành động cụ thể đã có.
o Điều kiện cụ thể: Phải xem xét trên cả hai mặt. 
Một là, mục tiêu của chủ thể quản lý lúc đó là gì; 
Hai là, môi trường cụ thể lúc đó ra sao.
o Phương pháp phù hợp: Trong quản lý, có rất 
nhiều phương pháp. Bằng cách khái quát vĩ mô, có 
3 phương pháp cơ bản: Phương pháp tổ chức, hành 
chính; Phương pháp tâm lý, xã hội và phương pháp 
kinh tế. Tuy nhiên, phương pháp phù hợp được áp 
dụng để xử lý trong những tình huống cụ thể khi 
chủ thể quản lý thực thi các chức năng quản lý lại 
phụ thuộc phần lớn vào sự từng trải của chủ thể 
quản lý... 
o Không vi phạm nguyên tắc: Được hiểu là không 
vi phạm các quy định còn có hiệu lực đã được công 
bố chính thức của người có thẩm quyền. 
Nói tóm lại, nếu chủ thể quản lý đưa ra một quyết 
định quản lý trong quá trình thực hiện chức năng 
quản lý của mình bị vi phạm một trong bốn điều kiện 
cần “Thông, Điều, Phương, Nguyên“ trong thao tác 
tư duy thì quyết định quản lý đó không đáp ứng được 
mục tiêu chung và quyết định quản lý đó không được 
đời sống thực tế chấp nhận. 
6. Điều kiện để phát triển năng lực thực hiện 
nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục 
trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam 
Tìm điều kiện để phát triển năng lực thực hiện 
nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục chính là việc 
tìm điều kiện để phát triển năng lực đưa ra các quyết 
định quản lý đúng, kịp thời trước những tình huống 
cụ thể, khi bản thân người CBQL giáo dục đang 
đóng vai trò là một CBLĐ đối với tình huống đó.
Xuất phát từ khái niệm năng lực của một con 
người trước một nhiệm vụ, trong bối cảnh mục tiêu 
tổng quát của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện 
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở 
Việt Nam đã được xác định và yêu cầu tăng cường 
năng lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 
4, để phát triển năng lực của CBQL giáo dục, cần 
phải có tối thiểu các điều sau:
i. Thống nhất và công bố công khai các chuẩn 
đối với từng cấp, bậc học; chuẩn đối với từng cấp 
quản lý trong hệ thống giáo dục (Chính các chuẩn 
này kết hợp với các Điều lệ tương ứng đã có sẽ định 
hướng cho CBQL giáo dục phấn đấu để bảo đảm 
yếu tố thứ nhất: Yếu tố nhận thức).
ii. Tuân thủ đúng các yêu cầu khi bổ nhiệm 
người đứng đầu một đơn vị/tổ chức hay khi giao 
trách nhiệm cho một người trước một nhiệm vụ cụ 
thể. Một yêu cầu trọng yếu trong điều kiện thứ 2 
này là: Người được giao nhiệm vụ đã thành công 
khi đóng vai trò là CBLĐ trong quá khứ chưa? Nói 
một cách khác, sự từng trải của họ trong lĩnh vực 
mà cấp có thẩm quyền định giao cho họ cụ thể ra 
sao? (Chính yêu cầu này sẽ khuyến khích và định 
hướng cho CBQL giáo dục tự rèn luyện khả năng 
của bản thân để những khả năng sẵn có trong họ 
hoặc họ tiếp nhận được trong thực tế cuộc sống trở 
thành kỹ năng của bản thân. Rèn luyện các thao 
tác tư duy trước khi đưa ra một quyết định quản 
lý chính là điều kiện tiên quyết để trở thành một 
CBQL/CBLĐ thành công). 
iii. Thái độ khi thực hiện nhiệm vụ của người sẽ 
được giao nhiệm vụ là một thách thức đối với các 
cấp có thẩm quyền. Đây là một điều kiện quan trọng 
nhưng khó nhận dạng chính xác ngay được; Hơn 
nữa, để phát triển được thái độ tích cực của một 
con người phải là một quá trình, không thể trong 
một thời gian ngắn. Từ khái niệm thái độ, có thể 
hình dung việc đánh giá về thái độ của một người 
trước một nhiệm vụ cụ thể là sự sẵn sàng của người 
đó trước nhiệm vụ theo một hướng nhất định trong 
một quá trình thực thi nhiệm vụ đó, nó được bộc lộ 
ra bên ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và 
lời nói của người đó trong những tình huống, điều 
kiện cụ thể (Đó chính là những biểu hiện cấp thấp 
của quyết định quản lý). 
iv. Một điều hiển nhiên, điều kiện không thể 
thiếu để phát triển năng lực thực hiện một nhiệm 
vụ là sức khỏe của người được trao nhiệm vụ trước 
các sức ép về kinh tế, xã hội, tâm lý trong quá trình 
thực thi nhiệm vụ.
v. Điều kiện tối thiểu cuối cùng là phải có môi 
trường phù hợp. Thực tế đã cho thấy, để có một môi 
trường phù hợp không giản đơn và yếu tố này đang là 
điểm yếu trong thực tế ở Việt Nam. Môi trường phù 
hợp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thành công 
một nhiệm vụ. Làm sao có thể thành công khi bất ngờ 
gặp “thiên tai, địch họa”? Làm sao thể hiện được khả 
năng trước một nhiệm vụ nếu thường xuyên chỉ “ở 
hàng dự bị”? Làm sao thể hiện được khả năng giảng 
dạy hay quản lý một cách nhanh chóng, hợp lý trong 
hoàn cảnh phải tận dụng triệt để sức mạnh lan tỏa của 
số hóa và công nghệ thông tin khi mà các điều kiện 
về cơ sở vật chất thiếu thốn, khi ta không có đủ lượng 
thông tin cần thiết? Làm sao thực hiện được nhiệm 
vụ khi quá trình thực hiện không có nguyên tắc hay 
nguyên tắc đưa ra một cách tùy tiện?...
7. Kết luận
Muốn hoàn thành một nhiệm vụ và phát triển 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
61Số 21 - Tháng 3 năm 2018
năng lực này trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, 
mỗi CBQL giáo dục phải nhận dạng đúng các yếu 
tố tạo nên năng lực thực hiện nhiệm vụ và phải hiểu 
rõ vai trò của một người CBQL giáo dục để từ đó 
có định hướng cho mình trong quá trình hoàn thiện 
bản thân. 
Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL 
giáo dục chính là năng lực đưa ra các quyết định 
quản lý đúng khi tác động trực tiếp đến đối tượng 
quản lý thông qua bốn quá trình (còn được gọi là 4 
chức năng quản lý): Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo 
và kiểm tra một cách có hướng đích, không vi phạm 
nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đã được tập 
thể thống nhất về các nội dung nhằm bảo đảm thực 
hiện đúng bản chất của giáo dục và trong một môi 
trường giáo dục. 
Để có những QĐQL đúng, mỗi CBQL giáo dục 
phải hiểu rõ các biểu hiện của QĐQL, nó bao gồm 
cả các hành động tương tác có ý thức, các hành 
động tạo nên sự nêu gương của bản thân hoặc các 
văn bản do mình ban hành. Một điều vô cùng quan 
trọng là: Mỗi CBQL phải thường xuyên rèn luyện 
các thao tác tư duy trước khi bản thân đưa ra một 
QĐQL nào đó.
Những điều kiện để phát triển năng lực thực 
hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục trong bối 
cảnh hiện nay ở Việt Nam đã đề cập là những điều 
kiện tối thiểu để phát huy tốt được 5 yếu tố (NT, 
KN, TĐ, SK và MT) cấu thành năng lực thực hiện 
nhiệm vụ chính của một người bình thường. Khi là 
một CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay, 5 điều 
kiện trên càng trở nên quan trọng đối với các cấp có 
thẩm quyền và đối với mỗi cá nhân thực hiện các 
nhiệm vụ giáo dục. Điều kiện thứ nhất và thứ hai 
phụ thuộc phần lớn vào vai trò, trách nhiệm của các 
cấp quản lý giáo dục có thẩm quyền. Điều kiện thứ 
ba và thứ tư lại phụ thuộc phần lớn vào vai trò, trách 
nhiệm của cá nhân khi nhận một nhiệm vụ giáo dục 
nào đó. Để có được điều kiện thứ năm thì không 
phải trách nhiệm của riêng ai với sự dẫn dắt, gương 
mẫu từ các CBLĐ/CBQL các cấp.
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết đã đưa 
cách tiếp cận dưới góc độ quản lý về năng lực thực 
hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục, với hy 
vọng: Không những gián tiếp chỉ ra những nguyên 
nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập khi thực hiện 
việc giao trách nhiệm cụ thể về lĩnh vực giáo dục 
cho một cá nhân ở Việt Nam, mà hơn nữa, người 
viết muốn chỉ ra vai trò, trách nhiệm của các cá 
nhân/tập thể trong việc tạo ra các điều kiện tối thiểu 
để phát triển được năng lực thực hiện nhiệm vụ 
chính của CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay 
ở Việt Nam. 
Điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm 
vụ chính của CBQL ở các cơ sở giáo dục dành cho 
người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu cách mạng 
công nghiệp 4.0 cũng chính là các điều kiện để phát 
triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL 
giáo dục nói chung đã được đề cập trong mục 6 ở 
trên nhưng với cách tiếp cận “vừa sức và phù hợp 
với thực tiễn”, trong đó phải đề cao tính minh bạch 
khi thực hiện một hoạt động nào đó và sự trải ng-
hiệm của cá nhân khi được giao một nhiệm vụ. 
Tài liệu tham khảo
[1] Ban chấp hành Trung ương, (2013), Nghị 
quyết TW8, ĐH XI, về đổi mới căn bản, toàn diện 
Giáo dục và Đào tạo. NQ số 29-NQTW;
[2] Chính phủ, (2017), Về việc tăng cường năng 
lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. 
Chỉ thị 16-CT/TTg, ngày 04/5/2017 của Thủ tướng 
Chính phủ;
[3] Vũ Hữu Ngoạn, (2001), Tìm hiểu một số khái 
niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng, NXB. 
Chính trị Quốc gia;
[4] Ngô Viết Sơn, (2013), Phát triển năng lực 
nghiên cứu khoa học cho sinh viên Học viện Quản 
lý giáo dục. Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN cấp 
Bộ, mã số B2009 -29.36;
[5] Ngô Viết Sơn, (2014), Dùng định nghĩa thao 
tác để tìm hiểu khái niệm quản lý và lợi ích khi sử 
dụng cách định nghĩa này, Tạp chí Giáo dục, số 
374, kỳ 1, tháng 12-2014;
[6] Ngô Viết Sơn, (2015), Một cách tiếp cận để 
tìm bản chất của quản lý giáo dục. Tạp chí Khoa 
học Quản lý Giáo dục. Số 4, tháng 8-2015;
[7] Từ điển thuật ngữ lý luận và phương pháp 
dạy học. Đại học giáo dục. Dự án KHCN đặc biệt 
của Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. Chủ nhiệm Dự 
án: GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc.
DEVELOPING CAPACITY OF EDUCATION MANAGERS IN ETHNIC MINORITY BOARDING 
SCHOOL MEETING THE INDUSTRIAL NETWORK REQUIREMENTS 4.0
Ngo Viet Son
Abstract: After clarifying the terms: Capacity, educational administrators, the ability to perform the 
primary task of education administrators and assurance conditions have a correct management decision, 
the writer would like to propose The conditions for developing the capacity to perform the main task of 
educational administrators in the current context in Vietnam are based on that point of view when applied 
to management staff at educational institutions. for ethnic minorities.
Keyword: Capacity; education managers; management decisions; ethnic minorities.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nang_luc_cua_can_bo_quan_ly_o_cac_truong_pho_thon.pdf