Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam

Đối với Việt Nam, việc xây dựng và phát triển các khu kinh tế ven biển nhằm

phát huy lợi thế sẵn có, tạo động lực phát triển các vùng kinh tế trọng điểm luôn đóng vai

trò, vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, cho đến nay,

sau hơn 10 năm đi vào hoạt động, thành tựu của các khu kinh tế ven biển ở nước ta còn khá

khiêm tốn, chưa đáp ứng được mục tiêu và yêu cầu đề ra. Bài báo tập trung luận giải cơ sở

lý luận và thực tiễn liên quan đến chính sách xây dựng và vận hành khu kinh tế ven biển ở

Việt Nam, từ đó đánh giá thực trạng và đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của mô hình kinh tế này trong thời gian tới.

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 1

Trang 1

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 2

Trang 2

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 3

Trang 3

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 4

Trang 4

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 5

Trang 5

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 6

Trang 6

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 7

Trang 7

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 6080
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam

Phát triển khu kinh tế ven biển – Từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam
ười Pháp François Perroux (1903-1987) và tiếp tục được các nhà 
kinh tế sau này kế thừa và phát triển, đã trở thành nền tảng quan trọng cho việc phân tích 
các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế vùng. Theo đó, việc hình thành các “cực tăng 
trưởng” từ những nơi có tiềm năng phát triển nhất của vùng, tạo sức lan tỏa ra các khu vực 
xung quanh được coi là bước đi hiệu quả trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế 
vùng. Việc phát triển các cực tăng trưởng này có tác dụng hút dòng hàng hóa nguyên liệu 
và lao động của các khu vực khác trong vùng, thậm chí ngoài vùng, tạo nên một tập hợp 
các liên kết kinh tế giữa cực tăng trưởng với các vùng xung quanh [1]. Lý thuyết này đã 
thu hút sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách trên thế giới, đặc biệt trong bối 
cảnh các mô hình phát triển cân đối theo không gian và mô hình ưu tiên tập trung phát triển 
kinh tế cho các vùng tụt hậu tỏ ra không còn hiệu quả trong điều kiện nguồn lực là hữu 
hạn. 
Trung Quốc là một điển hình trong việc xây dựng thành công các cực tăng trưởng là 
các đặc KKT, thành phố mở cửa ở các vùng ven biển, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong 
phạm vi nội vùng cũng như các vùng lân cận trong nội địa. Bài học đầu tiên của Trung 
Quốc là vấn đề lựa chọn địa điểm xây dựng ĐKKT. Các ĐKKT của Trung Quốc được lựa 
chọn xây dựng ở những địa điểm có vị trí rất đặc biệt, tạo thuận lợi cho chiến lược mở rộng 
1
 Nguồn: Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 67 
giao lưu kinh tế với bên ngoài. Hầu hết các ĐKKT được xây dựng ở các khu vực ven biển, 
gần với các khu vực kinh tế, tài chính năng động; đồng thời, là những nơi tập trung nhiều 
Hoa Kiều như Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan. Với lợi thế đó, các ĐKKT sẽ trở thành địa 
bàn thu hút đầu tư của các Hoa Kiều và những nhà tư bản từ những nơi đó vào đại lục. Ví 
dụ, địa điểm xây dựng các ĐKKT là Thâm Quyến và Sán Đầu gần với Hồng Kông, Chu 
Hải gần Macao và Hạ môn gần Đài Loan. Riêng đối với ĐKKT Hải Nam, tuy không nằm 
kề các khu vực có lợi thế về vốn và công nghệ như 4 ĐKKT trên, nhưng ĐKKT Hải Nam 
lại nằm trọn trên một tỉnh, với vị trí biển đảo hết sức thuận lợi cho giao lưu kinh tế với 
nước ngoài; đồng thời Hải Nam có thể mở rộng các hoạt động du lịch nói riêng và các dịch 
vụ quốc tế nói chung. Song song với vấn đề lựa chọn địa điểm là vấn đề lựa chọn đối tác 
ưu tiên để thu hút nguồn lực từ bên ngoài vào ĐKKT. Trong giai đoạn đầu thành lập 
ĐKKT, Trung Quốc chỉ rõ những đối tượng ưu tiên trước hết trong chính sách khuyến 
khích thu hút đầu tư chính là hơn 60 triệu người Hoa và Hoa Kiều đang sinh sống tại Hồng 
Kông, Đài Loan, Ma Cao. Sau nữa là những nhà đầu tư có khả năng đem đến cho Trung 
Quốc nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên toàn cầu. Chiến lược này 
đã đem lại những kết quả: Hồng Kông, Đài Loan và Macao đã trở thành đối tác đầu tư 
quan trọng đối với các ĐKKT Trung Quốc trong hơn hai thập kỷ qua. 
Nếu như lý thuyết cực tăng trưởng là cơ sở lý luận để giải thích thành công của Trung 
Quốc trong việc phát triển các ĐKKT và các thành phố ven biển trong công cuộc cải cách 
kinh tế và mở cửa hội nhập với thế giới của nước này, thì lý thuyết Lợi thế cạnh tranh quốc 
gia của Michael E.Porter (1990) được nêu ra trong cuốn The Competitive advantage of 
nations
1
 là cơ sở để lý giải thành công của Hàn Quốc chính sách phát triển các KKT tự do 
ở nước này vào đầu những năm 2000 dựa trên chiến lược phát triển cụm liên kết ngành 
trong KKT. Theo Michael E.Porter, cụm liên kết ngành (cluster) là sự tập trung về địa lý 
của các doanh nghiệp có liên kết với nhau, các nhà sản xuất chuyên môn hóa, các nhà cung 
cấp dịch vụ và các thể chế liên quan về một lĩnh vực nhất định, hiện diện trong một quốc 
gia hay một vùng lãnh thổ. Việc hình thành các cụm liên kết ngành trong một không gian 
địa lý xác định sẽ góp phần tạo nên lợi thế cạnh tranh bền vững của một quốc gia trong bối 
cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Vận dụng lý thuyết này, nhiều chuyên gia chỉ rõ: thực tiễn ở 
nhiều nước trên thế giới cho thấy, việc phát triển các cụm công nghiệp, KCN, KKT riêng 
lẻ chưa thực sự phát huy hết hiệu quả mà phải dựa vào một mô hình hay tiếp cận mới đó là 
phát triển các cụm liên kết ngành (Cluster development). 
Xây dựng mô hình KKT tự do ven biển gắn với phát triển cụm liên kết ngành là bước 
đi quan trọng của Hàn Quốc nhằm tạo nên lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn lực từ bên 
1
 Phiên bản tiếng Việt “Lợi thế cạnh tranh quốc gia”, Nxb Trẻ, 2008 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 68 
ngoài và tạo ra những bước phát triển dài hạn cho các KKT tự do của nước này trong bối 
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2003 là năm đánh dấu sự hình thành của 3 KKT tự do 
đầu tiên của Hàn Quốc là Incheon, Busan-Jinhae và Gwangyang. Sau 5 năm, kể từ khi hình 
thành KKT đầu tiên, Chính phủ Hàn Quốc quyết định thành lập thêm 3 KKT tự do mới là 
Yellow Sea, Saemangeum-Gunsan và Daegu-Gyeongbuk. Chiến lược của Hàn Quốc trong 
phát triển KKT tự do là xác định lĩnh vực ưu tiên trên cơ sở lợi thế của từng khu nhằm 
tránh sự cạnh tranh giữa các KKT và giúp các KKT phát huy một cách tốt nhất tiềm năng, 
thế mạnh của mình. 
Bảng 1: Lĩnh vực ưu tiên đầu tư của các KKT tự do ở Hàn Quốc 
Khu kinh tế 
Năm 
thành 
lập 
Diện tích 
(km
2
) 
Ngành nghề thu hút đầu tư 
Incheon 2003 290,4 
Phát triển lĩnh vực logistics, kinh doanh dịch vụ 
(global business service), du lịch nghỉ dưỡng và 
giải trí, công nghệ cao 
Busan-Jinhae 2003 104,8 
Phát triển lĩnh vực vận tải biển, công nghiệp có 
hàm lượng kỹ thuật cao, du lịch và dịch vụ gắn 
với biển 
Gwangyang 2003 90,5 
Phát triển lĩnh vực vận tải biển, sản phẩm thép và 
hóa chất, du lịch và dịch vụ 
Yellow Sea 2008 55 
Phát triển lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sinh 
học và vận tải biển 
Saemangeum-
Gunsan 
2008 66,9 
Phát triển lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới, 
tái tạo, du lịch và dịch vụ cho khách Trung Quốc 
Daegu-
Gyeongbuk 
2008 39,5 
Phát triển lĩnh vực giáo dục, y tế, công nghiệp 
thời trang, công nghệ thông tin 
Nguồn: Trần Duy Đông, Kinh nghiệm phát triển khu kinh tế tự do ở Hàn Quốc, đăng ngày 
24/3/2011, Tạp chí Khu Công nghiệp Việt Nam 
Trong năm 2014, tổng đầu tư vào các KKT tự do của Hàn Quốc, bao gồm cả đầu tư 
trong và ngoài nước, đạt gần 58.000 tỷ won (khoảng 55 tỷ USD) [6]. Có thể nói, lợi thế về 
vị trí địa lý, quy hoạch rõ ràng, mục tiêu cụ thể, nhân lực trình độ cao, môi trường kinh 
doanh và môi trường sống mang chuẩn mực quốc tế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài là 
những yếu tố then chốt làm nên thành công của các KKT tự do ở Hàn Quốc. 
2.2. Thực trạng phát triển các khu kinh tế ven biển ở Việt Nam và vấn đề đặt ra 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 69 
Tính đến cuối năm 2015, ở Việt Nam có 16 KKT được thành lập và đi vào hoạt động, 
gồm 02 KKT thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng; 03 KKT thuộc khu vực Đồng bằng 
sông Cửu Long; khu vực Duyên hải miền Trung sở hữu số lượng lớn nhất, lên tới 11 KKT. 
Ngoài ra, vào năm 2010, có thêm 02 KKT đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ 
sung vào Quy hoạch tổng thể phát triển các KKT ven biển đến năm 2020, gồm KKT ven 
biển Thái Bình (Thái Bình) và Ninh Cơ (Nam Định) 
Bảng 2: Các khu kinh tế ven biển ở Việt Nam 
Stt Khu kinh tế Địa điểm 
Thời điểm 
thành lập (*) 
Diện tích (ha) 
1 Chu Lai Quảng Nam 5/6/2003 27.040 
2 Dung Quất Quảng Ngãi 21/3/2005 10.300 
3 Nhơn Hội Bình Định 14/6/2005 12.000 
4 Chân Mây-Lăng Cô Thừa Thiên Huế 05/01/2006 27.108 
5 Vũng Áng Hà Tĩnh 3/4/2006 22.781 
6 Vân Phong Khánh Hoà 25/4/2006 150.000 
7 Nghi Sơn Thanh Hóa 15/5/2006 18.611,8 
8 Vân Đồn Quảng Ninh 31/5/2006 55.133 
9 Đông Nam Nghệ An Nghệ An 11/6/2007 18.826,47 
10 Đình Vũ - Cát Hải Hải Phòng 10/1/2008 21.600 
11 Nam Phú Yên Phú Yên 29/4/2008 20.730 
12 Hòn La Quảng Bình 10/6/2008 10.000 
13 Định An Trà Vinh 27/4/2009 39.020 
14 Năm Căn Cà Mau 23/11/2010 11.000 
15 Phú Quốc Kiên Giang 22/5/2013 58.923 
16 Đông Nam Quảng Trị Quảng Trị 16/9/2015 23.792 
(*) Tính tại thời điểm Chính phủ ban hành Quyết định thành lập KKT 
Nguồn: Tập hợp từ website của Ban Quản lý các khu kinh tế 
Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay tỷ lệ lấp đầy các KKT ven biển 
mới đạt 9%, tổng doanh thu hằng năm đạt khoảng 6-8 tỷ USD, đóng góp vào ngân sách 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 70 
hàng năm chỉ khoảng 500-600 triệu USD1. Đánh giá về vai trò của các KKT ven biển, các 
chuyên gia kinh tế cho rằng chỉ có KKT Dung Quất với Dự án nhà máy lọc hóa dầu, bước 
đầu thể hiện được vai trò động lực phát triển kinh tế vùng, vai trò này của các KKT còn lại 
được thể hiện hết sức mờ nhạt. Tuy nhiên, theo ông Lê Văn Dũng, Phó Trưởng Ban Quản 
lý KKT, sự phát triển của KKT vốn được coi là kiểu mẫu này đang có dấu hiệu chững lại 
bởi mới chỉ phát triển dựa vào “xương sống” của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất mà chưa 
tìm được hướng đi mới [5]. 
Trên cơ sở các lý thuyết về khoa học vùng và liên kết vùng, cũng như kinh nghiệm thực 
tiễn của một số quốc gia trong những năm gần đây, đang đặt ra yêu cầu về đổi mới tư duy 
quản lý vùng kinh tế nói chung và quan điểm phát triển KKT nói riêng, trong đó có các KKT 
ven biển. Theo đó, việc phát triển các KKT ven biển phải được đặt trong tổng thể quy hoạch 
và cơ cấu kinh tế vùng và phải tạo ra được những động lực phát triển có tính đột phá cho 
toàn vùng và nền kinh tế. Từ năm 2008 cho đến nay, vấn đề này đã được đề cập trong quan 
điểm chỉ đạo của Chính phủ về định hướng phát triển các KKT ven biển ở nước ta; trong đó 
nhấn mạnh một trong những điều kiện để thành lập KKT là “có khả năng phát huy tiềm 
năng tại chỗ và tạo ảnh hưởng phát triển lan tỏa đến các khu vực xung quanh”. Tuy nhiên, 
trong thực tiễn phát triển các KKT ven biển ở nước ta hiện nay, việc thực thi quan điểm chỉ 
đạo nêu trên của Chính phủ còn hạn chế và gặp nhiều trở ngại. Hầu hết các KKT ven biển 
được thành lập và đi vào hoạt động hiện nay đều thuộc địa bàn của các địa phương có điều 
kiện kinh tế - xã, trong khi hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu còn chưa được đầu tư 
xây dựng đồng bộ nên rất khó có thể đạt được mục tiêu thúc đẩy kinh tế nội vùng và ngoại 
vùng phát triển. Mặt khác, việc phát triển theo trào lưu, không tính đến những điều kiện tự 
nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và quy hoạch tổng thể vùng đang đặt ra những thách thức 
không nhỏ cho vấn đề quản lý, tập trung nguồn lực và nâng cao hiệu quả hoạt động của các 
KKT ven biển. Thực trạng này dẫn đến sự phân tán các nguồn lực đầu tư, không đủ nguồn 
vốn cho đầu tư phát triển (cả vốn trung ương và vốn địa phương), thiếu hụt nguồn nhân lực 
có trình độ, cơ chế chính sách thiếu tính đồng bộ. 
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Các khu kinh tế giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế các quốc gia, đặc biệt là các 
nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Các khu này đóng vai trò như 
những cánh cửa lớn, thu hút nguồn lực từ bên ngoài, tạo ra bước phát triển đột phá cho nền 
kinh tế quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, các KKT với vị trí địa lý thuận lợi, 
cơ sở hạ tầng hoàn thiện, các chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn, thể chế hành chính, pháp lý 
1
 Nguồn: Vụ Quản lý các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và đầu tư 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 71 
thông thoáng và đặc biệt là có tính kết nối thành chuỗi cung ứng mang tính toàn cầu, vẫn 
luôn là địa chỉ và điểm đến tin cậy đối với các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước. 
 Các KKT ven biển ở Việt Nam được xây dựng với mục tiêu đẩy mạnh quá trình hội 
nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài nhằm tạo ra những bước phát 
triển mạnh mẽ và bền vững cho kinh tế các vùng ven biển và cả nước. Tuy nhiên, với việc 
đầu tư dàn trải, mang tính cục bộ địa phương, nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng còn hạn 
chế, hiệu quả hoạt động của các KKT ven biển ở nước ta hiện nay còn thấp, chưa tương 
xứng với quy mô và yêu cầu đặt ra. Đặc biệt, việc phát triển mang tính phong trào, thiếu 
tính liên kết trong phát triển kinh tế vùng đã và đang là những bất cập và trở ngại trong 
chiến lược phát triển KKT ven biển nói riêng và các vùng kinh tế ven biển nói chung ở 
Việt Nam. 
Để đạt được mục tiêu đề ra của chính sách phát triển các KKT ven biển, trong quy 
hoạch phát triển KKT, cần tính đến các điều kiện về lợi thế địa kinh tế, khả năng cạnh 
tranh trong nước, khả năng liên kết vùng, tạo ra sự cạnh tranh với các KKT trong khu vực 
và quốc tế. Một điểm quan trọng khác là cần phải đánh giá tính khả thi trong huy động 
nguồn lực tài chính trên cơ sở xem xét vai trò của khu vực tư nhân và các nhà đầu tư chiến 
lược. 
Với các KKT hiện đang hoạt động, cần xác định tiêu chí và thực hiện phân hạng, phân 
loại các KKT một cách khách quan, khoa học; trên cơ sở đó, lựa chọn lĩnh vực ưu tiên cho 
từng KKT; xây dựng cơ chế, chính sách tập trung đầu tư, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, trước 
hết đối với những KKT có vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều tiềm năng, lợi thế, có khả năng 
trở thành các “cực tăng trưởng”, tạo tác động lan tỏa tới các khu vực xung quanh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Báo cáo đánh giá khảo sát về tính liên kết vùng trong liên kết kế hoạch tại trung ương và địa 
phương của Bộ Kế hoạch và đầu tư (2012), Tr.8 
2. Công văn 1231 TTg-KTTH, ngày 17/08/2012 v/v rà soát, xây dựng tiêu chí lựa chọn một số 
Khu kinh tế ven biển để tập trung đầu tư giai đoạn 2013 – 2015. 
3. Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và 
khu kinh tế 
4. Quyết định số 1353/QĐ-TTg, ngày 23/9/2008 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề 
án “Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020” 
5. Nguyễn Kim Anh (2011), “Phát triển khu kinh tế biển – Không thể “phong trào”, Báo điện tử 
Việtnam+, Tr.2 
6. Thu Anh, “Thỏi nam châm Incheon”, Báo điện tử Chính phủ ra ngày 24/4/2015, Tr.1 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 72 
7. Douglas Zhihua Zeng (2010), “Building Engines for Growth and Competitiveness in China: 
Experience With special economic zones and industrial cluster”, Published by Worldbank, Tr.29-
36 
DEVELOPING THE COASTAL ECONOMIC ZONES – FROM THEORY 
TO PRACTICE OF VIET NAM 
Abstract: In Vietnam, the construction and development of coastal economic zones 
(CEZs) to promote existing advantages and motivate the development of key economic 
regions have played an important role in the national economic development strategy. 
However, so far, after more than 10 years in operation, the CEZs in our country have 
gained limited achievements, failed to meet the initial objectives and requirements. In this 
article, we focus on studying theoretical and practical issues relating to the construction 
and operation of coastal economic zones in Vietnam. According to the research, we 
review assessments and recommendations to improve the effectiveness of CEZs in the 
next time. 
Keywords: Economic zones, coatal economic zones, free economic zones, special 
economic zones 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_khu_kinh_te_ven_bien_tu_ly_thuyet_den_thuc_tien_v.pdf